Hằng năm cơ quan bà Hoàng Ngân (Thái Nguyên) đặt hàng sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước nguồn chi thường xuyên với nhà cung cấp dịch vụ sự nghiệp công có nhiều hạng mục kiến trúc, đường, điện, thoát nước… tại nhiều tỉnh, thành phố.
Căn cứ Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 17/2019/TT-BLĐTBXH các bộ, ngành ban hành quyết định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương không được vượt quá các giá trị đã quy định. Theo đó một số tỉnh, thành phố đã ban hành quyết định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương để thuận tiện trong quá trình xác định tiền lương của lao động trực tiếp sản xuất, lao động chuyên môn, nghiệp vụ, thừa hành, phục vụ trong giá, đơn giá sản phẩm, dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước do doanh nghiệp thực hiện.
Tuy nhiên, việc ban hành hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương giữa các tỉnh, thành phố còn có sự khác nhau (tỉnh, thành phố gần nhau, cùng là vùng IV nhưng hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương lại khác nhau hoặc cùng là thành phố thuộc tỉnh nhưng hệ số khác nhau).
Do vậy, bà Ngân đề nghị cần có hướng dẫn cụ thể việc xác định hệ số này, có tiêu chí nhất định để bảo đảm việc sử dụng hệ số hiệu quả, thống nhất trên cả nước. Trường hợp địa phương đã ban hành hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương thì bà Ngân đề nghị khuyến cáo bộ, ngành vận dụng hệ số này vào quyết định xác định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương của bộ chuyên ngành có được không?
Bà Ngân cũng muốn biết, việc xác định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương đối với các sản phẩm, dịch vụ công có tính chất chuyên ngành dựa trên nguyên tắc, tiêu chí cụ thể nào để tránh hiện tượng trong cùng một địa bàn có các hệ số khác nhau?
Đối với các địa phương đã ban hành quyết định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương, nhưng đến nay chưa có quyết định thay thế thì tiếp tục sử dụng hệ số này có được không? Có địa phương trước đây địa điểm thực hiện là vùng III (hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương = 0,7) nhưng theo Nghị định số 38/2022/NĐ-CP thì vùng II được hiểu hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương = 0,7 có phù hợp không?
Về vấn đề này, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời như sau:
Theo quy định tại Thông tư số 17/2019/TT-BLĐTBXH thì tiền lương của lao động trực tiếp sản xuất được xác định trên cơ sở hao phí lao động nhân với hệ số lương, phụ cấp của chức danh, công việc nhân mức lương cơ sở và hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương, trong đó: Hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương xác định theo từng vùng (không vượt quá 1,2 đối với vùng I; 0,9 đối với vùng II; 0,7 đối với vùng III và không quá 0,5 đối với vùng IV) do các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh quyết định.
Theo đó, hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương nêu trên là mức tối đa, hệ số cụ thể đối với từng vùng lương tối thiểu thực hiện theo quyết định của bộ, ngành, UBND cấp tỉnh.
Quy định xác định chi phí tiền lương trong Thông tư số 17/2019/TT- BLĐTBXH theo hệ số lương nhân với mức lương cơ sở áp dụng chung cả nước không phân biệt theo vùng, trong khi đó các doanh nghiệp hoạt động trên các vùng khác nhau (Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hòa Bình, Lai Châu,...) có sự chênh lệch khá lớn về chi phí sinh hoạt, mức lương thị trường.
Do đó, để bảo đảm sự hài hòa giữa các địa phương và đời sống người lao động, quy định hệ số điều chỉnh tăng thêm theo vùng do các bộ, ngành, địa phương quyết định để mức lương tính trong đơn giá phù hợp với mặt bằng tiền lương trên thị trường và khả năng ngân sách của bộ, ngành, địa phương.
Trường hợp địa phương đã ban hành hệ số điều chỉnh tăng thêm, khi thay đổi vùng lương tối thiểu từ vùng III lên vùng II thì hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa được xác định theo vùng II, tuy nhiên hệ số điều chỉnh tăng thêm cụ thể do UBND tỉnh quyết định.