Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 3%, khí LNG cũng nhích tăng
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm vào thứ Sáu (15/3), một ngày sau khi đạt 85 USD/thùng lần đầu tiên kể từ tháng 11/2023, nhưng vẫn tăng trong tuần khi nhu cầu gia tăng từ các nhà máy lọc dầu của Mỹ hoàn thành theo kế hoạch.
Cụ thể, kết thúc phiên 15/3, dầu thô Brent giảm 9 cent (-0,11%) về 85,33 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 17 cent (- 0,21%) về 81,09 USD/thùng. Tuy nhiên, tính cả tuần, 2 loại dầu đều tăng hơn 3%.
Thực tế, giá dầu đã bị giới hạn trong hầu hết tháng trước, khoảng từ 80-84 USD/thùng. Sau đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết trong báo cáo mới nhất rằng, nhu cầu dầu thế giới sẽ tăng 1,3 triệu thùng/ngày trong năm 2024, tăng 110.000 thùng/ngày so với tháng trước. Cơ quan này dự báo nguồn cung sẽ thiếu hụt nhẹ trong năm nay nếu các thành viên OPEC+ duy trì việc cắt giảm sản lượng trước đó được dự báo dư thừa.
Các công ty năng lượng Mỹ trong tuần qua đã bổ sung số lượng giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên lớn nhất trong một tuần kể từ tháng 9/2023, với số giàn khoan dầu tăng lên mức cao nhất 6 tháng, Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O thông tin.
Số giàn khoan dầu và khí đốt - một chỉ số sớm của sản lượng tương lai - đã tăng 7 giàn lên 629 giàn trong tuần qua tính đến ngày 15/3. Baker Hughes dự báo, số giàn khoan dầu sẽ tiếp tục tăng 6 giàn lên 510 giàn trong tuần này, cao nhất kể từ tháng 9/2023, trong khi số giàn khoan khí tăng 1 giàn lên 116 giàn.
USD đang mạnh lên với tốc độ nhanh nhất 8 tuần qua khiến dầu thô trở nên đắt hơn đối với người sử dụng các loại tiền tệ khác. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí vay tiêu dùng, điều này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu dầu.
Tại Mỹ, một số dấu hiệu cho thấy hoạt động kinh tế chậm lại được coi là khó có thể thúc đẩy Cục Dự trữ Liên bang (Fed) cắt giảm lãi suất trước tháng 6/2024 vì các dữ liệu khác thể hiện giá sản xuất tháng trước tăng nhiều hơn dự kiến.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á nhích lên trong ngày 15/3 sau khi giữ ổn định trong tuần, trong bối cảnh lo ngại về một số lô hàng bị chậm trễ do thời tiết xấu ở Úc và do người mua châu Á chấp nhận giá thấp.
Cụ thể, giá LNG trung bình kỳ hạn giao hàng tháng 4/2024 tới Đông Bắc Á không thay đổi so với tuần trước, ở mức 8,6 USD/mmBtu - mức chạm tới lần gần đây nhất vào cuối tháng 4/2021. Tuy nhiên, giá hợp đồng giao tháng 5/2024 đã tăng lên 9 USD/mmBtu.
Kim loại: Vàng quay đầu giảm giá; quặng sắt lùi về mức thấp nhất 6 tháng; đồng tăng cao kỷ lục
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giữ ổn định vào thứ Sáu (15/3) do các nhà đầu tư hạ thấp kỳ vọng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất sau khi dữ liệu trong tuần cho thấy áp lực giá cả tăng vọt.
Cụ thể, vàng giao ngay kết thúc phiên ít thay đổi, ở mức 2.159,99 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng giao ngay giảm 0,8% và là tuần giảm đầu tiên kể từ giữa tháng 2/2024, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.194,99 USD/ounce vào tuần trước. Vàng kỳ hạn tháng 4/2024 cũng giảm 0,3% xuống 2.161,5 USD/ounce.
Dữ liệu cho thấy, giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 2/2024 đã tăng cao hơn kỳ vọng và giá sản xuất cũng thể hiện lạm phát có phần ổn định chứ không giảm.
Chỉ số Dollar index trải qua tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 1/2024, khiến vàng trở nên đắt hơn với các loại tiền tệ khác.
Tương tự, giá bạc giảm 0,94% xuống 23,18 USD/ounce, chấm dứt chuỗi tăng 2 phiên liên tiếp trước đó. Giá bạch kim đóng cửa tại mức 905,2 USD/ounce sau khi giảm 0,83%.
Việc USD duy trì đà tăng sau khi Mỹ công bố dữ liệu lạm phát khiến giá bạc và bạch kim chịu sức ép do chi phí đầu tư đắt đỏ hơn.
Ở nhóm kim loại màu, kết thúc phiên 15/3, giá đồng Thượng Hải đạt mức cao kỷ lục, giá ở London và Chicago cũng chạm mức cao nhất gần 12 tháng sau khi các nhà luyện kim Trung Quốc đồng ý cắt giảm sản lượng.
Cụ thể, trên Sàn giao dịch London (LME), giá đồng kỳ hạn giao 3 tháng tăng 1,9% lên 9.057 USD/tấn - mức cao nhất kể từ tháng 4/2023.
Dữ liệu từ Cục Thống kê Kim loại thế giới cho thấy, Trung Quốc chiếm 47% sản lượng đồng tinh luyện toàn cầu vào năm ngoái. Đây cũng là nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới, nhưng tăng trưởng kinh tế chậm lại và thiếu sự hỗ trợ kích thích lớn đã khiến triển vọng nhu cầu không thay đổi.
Về các kim loại màu khác trên sàn LME: Nhôm tăng 1% lên 2.274,5 USD/tấn; kẽm tăng 0,4% lên 2.558 USD/tấn; thiếc tăng 1,3% lên 28.635 USD/tấn; ngược lại, nikel giảm 0,9% về 17.920 USD/tấn và chì giảm 1,4% về 2.127,5 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, kết thúc phiên 15/3, giá quặng sắt kỳ hạn giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 6 tháng với mức giảm 11% trong tuần, trong bối cảnh nhu cầu mua giao ngay chậm lại và triển vọng nhu cầu ảm đạm ở nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc giảm 3,46% xuống 781,5 CNY (tương đương 108,61 USD)/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 22/8/2023 và giảm hàng tuần là 11% .
Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 4,1% về 99 USD/tấn - mức thấp nhất kể từ 1/6/2023 và giảm 14% trong tuần.
Theo các nhà tư vấn Mysteel và Lange Steel, rủi ro về nhu cầu quặng sụt giảm xuất hiện sau khi một số hiệp hội thép cấp tỉnh đưa ra tuyên bố kêu gọi cắt giảm sản lượng thép hoặc chỉ đề xuất mơ hồ các doanh nghiệp thị trường địa phương cùng nhau thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của ngành thép.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết thêm, các kho dự trữ quặng sắt gần như đã được bổ sung, với lượng tồn kho hiện ở mức cao nhất trong 12 tháng. Tuy nhiên, ANZ kỳ vọng giá quặng sắt sẽ ổn định từ góc độ chi phí sản xuất.
Theo dữ liệu của Mysteel , tồn kho quặng sắt tại 45 cảng lớn của Trung Quốc đã tăng 1% trong tuần qua, lên khoảng 142,9 triệu tấn tính đến ngày 15/3/2024.
Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA) đã tổ chức một cuộc họp với đại diện của một số nhà sản xuất thép lớn, cơ quan nghiên cứu và các nhà quy hoạch nhà nước thảo luận về cơ chế mới về kiểm soát công suất thép và đánh giá chính sách hoán đổi công suất trong ngành mà không đưa ra. Điều gây áp lực lên tâm lý, bên cạnh sự sụt giảm kéo dài của giá nhà mới trong tháng 2/2024 tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cho thấy thị trường địa ốc đang rất mong manh.
Giá các thành phần sản xuất thép khác trên DCE có thể yếu hơn, với giá than cốc và than luyện cốc giảm lần lượt 2,89% và 1,72%.
Theo đó, giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải nhìn chung đã giảm: Thép cây giảm 1,77%; thép cuộn cán nóng giảm 1,2%; thép thanh giảm 1,09%; thép không gỉ tăng 0,22%.
Nông sản: Ngô tăng giá, đi ngược với đậu tương, lúa mì
Giá lúa mì và đậu tương kỳ hạn tương lai của Ủy ban Thương mại Chicago (CBOT) giảm trong tuần qua do nguồn cung toàn cầu dồi dào và nhu cầu yếu.
Cụ thể, hợp đồng lúa mì giao dịch mạnh nhất trên sàn CBOT giảm 1-1/4 US cent xuống 5,31 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tương lai giảm 2,5 cent xuống 11,92-3/4 USD/bushel. Ngược lại, giá ngô kỳ hạn tăng 4 cent lên 4,37-3/4 USD/bushel, sau tin tức lĩnh vực tư nhân Mỹ đã bán 125.000 tấn ngô niên vụ 2023-2024 tới các địa chỉ chưa xác định.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao tăng kỷ lục, cao su tăng cao nhất 13 năm, dầu cọ cũng đi lên, cà phê và đường biến động trái chiều, bông đi xuống
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 0,15 US cent (-0,73%) về 21,77 US cent/lb, khi thị trường phản ứng với triển vọng nguồn cung tích cực tại Ấn Độ. Tuy nhiên, đường trắng cùng kỳ hạn tăng 0,03% lên 614,8 USD/tấn.
Hiệp hội Các nhà sản xuất đường Ấn Độ đã nâng dự báo sản lượng mía niên vụ 2023-2024 của nước này lên 34 triệu tấn, tăng 2,9% so với dự báo trước đó. Nguyên liệu đầu vào gia tăng kỳ vọng sẽ góp phần hỗ trợ nguồn cung đường nới lỏng hơn trong thời gian tới.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 0,9% lên 3.308 USD/tấn. Ngược lại, cà phê arabica cùng kỳ hạn giảm 0,5% xuống 1,8295 USD/lb. Các đại lý cho biết, thị trường cà phê robusta ở Việt Nam là một trong những thị trường thắt chặt nhất thời gian gần đây, đồng thời dự kiến mức điều chỉnh giảm 2-3% cho niên vụ 2023-2024.
Giá cacao kỳ hạn tháng 7/2024 giao dịch tại London tăng 5,4% lên 5.775 bảng Anh/tấn, có thời điểm đạt mức cao chưa từng có đối với hợp đồng này là 5.799 bảng Anh/tấn. Cacao cùng kỳ hạn giao dịch ở New York tăng 6,9% lên 7.224 USD/tấn, sau khi đạt mức cao chưa từng có là 7.379 USD/tấn.
Giá ca cao kỳ hạn trên sàn liên lục địa ICE tăng do các đại lý lo lắng về nguồn cung thắt chặt sau khi Reuters đưa tin rằng, các nhà máy ca cao lớn ở các nước sản xuất hàng đầu là Bờ Biển Ngà và Ghana đã ngừng hoặc cắt giảm hoạt động chế biến vì không đủ tiền mua hạt.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên 15/3 tăng 19 JPY (tăng 5,71%) lên 352 JPY (2,26 USD)/kg - mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 22/9/2011. Tính chung cả tuần, hợp đồng này tăng 12,46% - mức tăng hàng tuần mạnh nhất kể từ tháng 10/2020. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 435 CNY lên 14.790 CNY (109,8 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản kéo dài đà tăng sang phiên thứ 9, ở mức cao nhất gần 13 năm, ghi nhận tuần tăng tốt nhất trong hơn 3 năm trong bối cảnh mùa Đông và những lo ngại về thời tiết ở các nước sản xuất chính.
Giá dầu cọ thô tăng 2,38% lên 4.295 ringgit (909,77 USD)/tấn trước những tín hiệu kém khả quan về tình hình nguồn cung tại Malaysia. Theo Hội đồng Dầu cọ Malaysia (MPOB), tồn kho dầu cọ nước này tính đến cuối tháng 2/2024 đã chạm mức thấp nhất 7 tháng với 1,92 triệu tấn, giảm 5% so với tháng trước đó.
Giá bông giảm với 1,5% xuống 93,48 USD/tấn nhờ sự cải thiện của tồn kho kết hợp với sự mạnh lên của USD. Theo báo cáo tồn kho từ Sở ICE-US, tính đến ngày 14/3/2024, lượng bông lưu trữ tại đây được bổ sung 1.100 kiện so với 2 ngày trước đó, lên 27.765 kiện. Thêm vào đó, USD mạnh lên gây áp lực lớn lên giá bông Mỹ đối với khách hàng nắm giữ các loại tiền khác. Chi phí tăng khiến lực mua yếu thế trên thị trường.