Văn hóa chính là lối sống của con người
PGS.TS Nguyễn Văn Dân, viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho hay, với Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng cộng sản Việt Nam đã có ý thức rất sớm về vai trò của văn hóa đối với phát triển con người và đất nước. Ngay sau đó, đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Với ba nguyên tắc soi đường của văn hóa chính là: dân tộc, đại chúng, khoa học, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 cũng chính là ngọn đuốc soi đường cho sự phát triển con người và đất nước Việt Nam. Có thể nói, quan điểm của Đảng về văn hóa ngay từ đầu đã phù hợp với quan điểm của thế giới về vai trò động lực của văn hóa. Từ đây ta cũng có thể rút ra một quan niệm về bản chất của văn hóa: Văn hóa chính là lối sống của con người.
Văn hóa có tính khoa học là văn hóa bao gồm cả các hoạt động khoa học, kể cả các hoạt động sáng tác và biểu diễn văn hóa, nghệ thuật một cách khoa học, để phục vụ cho phát triển con người và xã hội.Văn hóa có tính dân tộc là văn hóa mang bản sắc của một quốc gia - dân tộc; bản sắc dân tộc chính là cái làm nên cái riêng của một dân tộc trong bức tranh văn hóa đa dạng của thế giới, là cái khẳng định danh tính của một dân tộc trong ngôi nhà chung củanhân loại.
Văn hóa có tính đại chúng là một nền văn hóa của toàn thể cộng đồng các dân tộc trong một quốc gia, không phải là đặc quyền, đặc lợi của riêng một tầng lớp xã hội nào. Đây là quan niệm khoa học về văn hóa, và Đề cương văn hóa có thể được coi là một công trình văn hóa học xuất hiện trước khi Đảng cộng sản Việt Nam giành được chính quyền.80 năm qua.
Trên cơ sở của Đề cương về văn hóa Việt Nam và với sự chỉ đạo của đường lối, chính sách văn hóa qua các thời kỳ, trên sự kế thừa văn hóa truyền thống và tiếp thu văn hóa thế giới, một nền văn hóa Việt Nam mới đã hình thành và phát triển với những nguyên tắc tiên tiến của thời đại và duy trì bản sắc dân tộc.
Chúng ta đã bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống, đóng góp cho quỹ di sản văn hóa của thế giới; đã tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới để điều chỉnh và xây dựng một nền văn hóa mới phù hợp với nền văn minh hiện đại của nhân loại.
Chúng ta đã có ý thức xây dựng một nền văn hóa nhân văn hướng tới cái tốt đẹp của con người; có một nền văn học, nghệ thuật theo kịp với sự phát triển văn minh của thế giới; có một nền văn hóa hòa bình; có một ý thức về dân số; có một ý thức về văn hóa môi trường...
Những cái đó thể hiện Việt Nam đang phát triển văn hóa dân tộc với sự hội nhập văn hóa trong một thế giới toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, theo ông Dân, chúng ta vẫn còn có những hiện tượng văn hóa lộn xộn, chưa đạt chuẩn mực văn minh.
Cần chấn chỉnh lại thể chế văn hóa
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dân, nói đến văn hóa là nói đến “lối sống”; còn văn minh là “trình độ sống”. Sở dĩ có sự lộn xộn này là vì những người làm và quản lý văn hóa chưa tuân thủ cái nguyên tắc “khoa học” của Đề cương văn hóa mà buông lỏng nguyên tắc “đại chúng”, từ đó dẫn đến buông lỏng các chế tài văn hóa.
Hiện tượng lộn xộn đập vào mắt vào tai trước hết là hiện tượng lai căng kệch cỡm tiếng nước ngoài trên báo đài, trên biển hiệu, danh xưng, và trên các sản phẩm văn hóa. Hầu như bây giờ tên gọi của các cửa hàng, khách sạn, công ty, khu đô thị, khu nghỉ dưỡng; của nhiều cơ quan, tổ chức nhà nước... đều ghi bằng tiếng Anh (một số ghi tiếng Pháp). Thậm chí của cả một số chương trình truyền hình.
Có cửa hàng, cửa hiệu, khu đô thị còn ghi một thứ tiếng bồi chẳng phải Anh cũng chẳng phải Pháp. Có những người (kể cả trí thức) sống ngay trong khu đô thị mang tên nước ngoài mà không biết đọc tên địa chỉ của mình như thế nào; còn những người khác thì đọcmỗi người một kiểu.
Có khu nghỉ dưỡng ghi tên bằng tiếng Pháp nhưng khách hàng lại đọc theo kiểu tiếng Anh, và có người lại đọc luôn theo kiểu tiếng Việt, làm cho người nghe không hình dung được là nó ở đâu. Có cửa hàng thì ghi nửa Anh nửa Việt (“Nail & Mi”). Trong khi đó truyền thông vẫn luôn kêu gọi phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt!
“Trên thực tế, Chính phủ đã có quy định tên tiếng nước ngoài phải ghi chữ nhỏ hơn và nằm dưới tên tiếng Việt. Nhưng tại sao hiện tượng trên không bị chế tài? Báo chí, phim ảnh và cả tên tác phẩm văn học bây giờ cũng đệm tiếng nước ngoài vô tội vạ...”, PGS.TS Nguyễn Văn Dân nêu vấn đề.
Cũng theo ông Dân, trong nghệ thuật vẫn còn nhiều sáng tác nhạt nhẽo, hời hợt, dễ dãi, đặc biệt là điện ảnh. Vẫn còn có những bộ phim truyền hình mua bản quyền kịch bản của nước ngoài để nhái lại, thậm chí có cả hiện tượng nhái kịch bản đơn thuần chứ không cần mua.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng “Lâu nay thiếu kịch bản điện ảnh, không phải là do không có đề tài, mà là thiếu người viết đủ tài”. Và một tác giả khác đã kết luận trong bài báo của mình: “Trong khi xã hội đang nỗ lực chống lại hàng nhái, thì giới điện ảnh lại công khai làm phim... nhái. Hàng nhái nhân danh giá rẻ, còn phim nhái nhân danh điều gì? Cái thiệt hại của người tiêu dùng trước hàng nhái chỉ là tiền bạc, còn người hâm mộ thiệt hại trước phim nhái cả niềm tin dành cho nghệ thuật thứ bảy nước nhà”.
Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài còn diễn ra xô bồ, thiếu chọn lọc, tập trung quá nhiều vào mảng văn hóa đại chúng, dẫn đến hiện tượng lai căng phảּn cảּm. Các cuộc thi hoa hậu thì diễn ra đến mức được gọi là “loạn”. Có thể nói, ta đang “học tập” văn hóa nước ngoài thì ít mà “bắt chước” thì nhiều.
Chương trình truyền hình của ta vẫn còn nghèo nàn, thiếu hấp dẫn; ít có những chương trình có chất lượng văn hóa và có ý nghĩa phát triển tinh thần. Trong khi đó đang có hiện tượng lấn át của các chương trình trò chơi, trò diễnvăn hóa nhạt nhẽo, đôi khi nhảm nhí, dung tục. Sự nhảm nhí thể hiện ở cả điệu bộ lẫn diễn ngôn của người chơi và ban giám khảo.
Hiện tượng quảng cáo trên truyền hình đang trở thành một vấn nạn. Lợi nhuận đã làm cho truyền hình nhận quảng cáo một cách tùy tiện. Dù có sự tham gia của các nghệ sĩ, nhưng một số quảng cáo không có văn hóa, nghệ thuật, mà chỉ là những màn diễn rất nhảm nhí, phảּn cảּm. Các nghệ sĩ quảng cáo không biết chất lượng sản phẩm nhưng vẫn diễn như thật, điều này dẫn đến cảm giác về sự dối trá.
Chương trình phim truyện truyền hình đã biến thành chương trình “quảng cáo kèm phim”, khiến cho quảng cáo trở thành một lý do để nhiều người quay lưng lại với phim truyền hình.
Đặc biệt, hiện tượng được gọi là “văn hóa tâm linh” đang phát triển ồ ạt hiện nay. Chùa mới (tính cả chùa xây lại) mọc lên với quy mô và tốc độ kinh ngạc. Đi tu đang biến thành một nghề kinh doanh.
Theo nguyên tắc tôn giáo truyền thống, chùa và nhà thờ là nơi thực hành tín ngưỡng công cộng, được mở cửa tự do cho mọi người dân. Nhà thờ ở các nước phương Tây vẫn giữ nguyên tắc đó: cửa vào không thu vé, không có hòm công đức.
Trong khi đó, ở nước ta, chùa nào cũng có hòm công đức bày khắp nơi,có nhiều bàn ghi công đức, có các dịch vụ thu tiền khác. Thậm chí có những chùa còn có bảng giá vé cho các dịch vụ, từ vé vào cửa đến các loại vé khác...Nhiều chùa còn tính lỗ lãi với người đi lễ.
Văn hóa tâm linh bị biến tướng thành kinh doanh thần thánh, góp phần khuyến khích mê tín dị đoan trong toàn xã hội. Đó là chưa nói đến việc xây chùa quy mô lớn đang hủy hoại môi trường và làm mất cân bằng sinh thái, đi ngược lại nguyên tắc phát triển bền vững của thế giới.
Từ những vấn đề nêu trên, PGS.TS Nguyễn Văn Dân cho rằng, Nhà nước cần phải chấn chỉnh lại thể chế văn hóa, phải có những quy định rõ ràng và chế tài nghiêm ngặt.
Cụ thể, cần có quy định về sử dụng ngôn ngữ, danh xưng, về nghệ thuật quảng cáo, về nhập khẩu văn hóa, về tính minh bạch trong giao dịch, về thực hành tín ngưỡng (không được kinh doanh chùa, không được phá thiên nhiên để xây chùa mới), về mê tín dị đoan.
Và đặc biệt là cần có quy định về trình độ chuyên môn và phong cách ứng xử của những người làm văn hóa (làm văn hóa phải có thái độ khoa học nghiêm túc,không phải là cợt nhả mua vui)...
“Làm sao cho văn hóa của chúng ta có tính“đại chúng” nhưng vẫn “khoa học”, hội nhập nhưng vẫn “dân tộc”, thực sự trở thành động lực của phát triển bền vững”, ông Dân nhấn mạnh.
Lược trích ý kiến của PGS.TS Nguyễn Văn Dân, viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943 – 2023) – Khởi nguồn và động lực phát triển”.