Vào thời vua Lê Đại Hành, vị thế của nước Việt cũng rất nguy nan khi phải đối mặt với sự xâm lược của nhà Tống phía Bắc, ở phía Nam vua Chiêm liên kết nhà Tống bắt sứ giả và khiêu chiến với nước Việt…
Thế nhưng bằng cách ngoại giao rất cương quyết, vua Lê Đại Hành đã bảo vệ vững chắc giang sơn cho dân tộc Việt, khiến Chiêm Thành phải quy phục, nhà Tống phải e sợ. Vậy vua Lê Đại Hành đã làm những gì?
Năm 980 trước khi tiến đánh Đại Cồ Việt, vua Tống gửi chiến thư cho Lê Hoàn, lúc đó vẫn còn là Phó Vương nhiếp chính, đe dọa bắt phải quy phục. Trong đó có đoạn viết: “Hiện nay ta đã sửa sang binh xa và bộ tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu vâng theo giáo hóa thì được tha; nếu chống lại mệnh lệnh thì sẽ bị trị tội.”
Trước khi tiến binh vua Tống cũng gửi thư đe dọa: “Nay chín châu bốn biển đã yên, chỉ còn Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời… Ngươi định về theo ta, hay muốn chuộc lấy tội. Ta đang chuẩn bị xe ngựa, binh lính, cờ lệnh, chiêng trống… nếu ngươi quy hàng ta tha, nếu trái mệnh thì ta đánh. Theo hay không, lành hay dữ, ngươi tự nghĩ lấy.”
Trong tình cảnh đó, Thái Hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga đã quyết định nhường lại Hoàng vị cho Lê Hoàn. Từ đó Lê Hoàn lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), xưng là vua Lê Đại Hành.
Vua Lê Đại Hành cương quyết chống giặc, ngoài việc củng cố chiến lũy, vua thường thỉnh mời những thiền sư như Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu bàn kế giữ nước, nhờ các thiền sư này chỉ bảo Phật Pháp nhằm giữ yên giang sơn.
Năm 981, tướng chỉ huy quân Tống là Hầu Nhân đưa quân sang đánh, vua Lê Đại Hành triệu thiền sư Vạn Hạnh đến hỏi nếu đánh thì thắng hay bại? Thiền sư Vạn Hạnh trả lời rằng, quân Tống sẽ bại và rút lui.
Quả nhiên quân Tống tiến vào bị quân của vua Lê Đại Hành đánh bại, tướng chỉ huy quân Tống là Hầu Nhân Bảo tử trận. Nhà vua có ý khen thưởng các vị thiền sư, nhưng tất cả đều không nhận.
Phá Tống bình Chiêm
Lê Đại Hành là vị vua không chỉ giỏi dùng binh, mà vấn đề ngoại giao cũng rất cương quyết theo đúng phép tắc nhằm bảo vệ giang sơn Đại Cồ Việt.
Vua Lê Đại Hành bàn việc nước. (Ảnh qua linhlinhp.violet.vn).
Sau khi đánh bại quân Tống vào năm 981, quan hệ Tống – Việt xấu đi, nhưng vua Lê Đại Hành lại tỏ ra không có gì phải e dè với nhà Tống cả. Khi sứ giả Tống sang, vua Lê cho nhìn thấy sức mạnh ba quân Đại Cồ Việt nhằm khủng bố tinh thần sứ nhà Tống.
Khi biên giới phía Bắc tạm yên, năm 982 vua Lê cho sứ giả đến Chiêm Thành tỏ ý hòa hảo, nhưng vua Chiêm Thành là Tỳ Mi Thuế liên kết với nhà Tống lại bắt giữ sứ giả và khiêu chiến với Đại Cồ Việt.
Vua Lê Đại Hành đưa quân tiến đánh Chiêm Thành cứu sứ giả, đến phút cuối còn do dự, lại mời thiền sư Vạn Hạn đến hỏi, thiên sư Vạn Hạnh trả lời rằng đây là cơ hội đừng để vuột mất.
Vua Lê tiến binh sang Chiêm Thành, vua Chiêm chống lại, chiến trận diễn ra ở vùng Bình Trị Thiên ngày nay. Vua Chiêm bị chém ngay giữa trận tiền, quân Chiêm thua to, quân Việt đánh chiếm được kinh thành. Từ đó Chiêm Thành quy thuận Đại Cồ Việt.
Vua Lê Đại Hành xuất chinh. (Ảnh qua linhlinhp.violet.vn).
Đồng thời vua Lê cũng đưa sản vật lấy được từ Chiêm Thành dâng tặng vua Tống cùng thông tin đánh bại Chiêm Thành, những động thái ngoại giao này khiến nhà Tống rất e sợ Đại Cồ Việt.
Năm 990 vua Tống Thái Tông sai hai đại thần là Tống Cảo và Vương Thế Tắc đi sứ phong thêm cho Lê Đại Hành hai chữ “Đặc tiến”. Vua Lê Đại Hành sai Đinh Thừa Chính mang 9 chiến thuyền và 300 quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) đón sứ, dùng quân tỏ rõ uy danh Đại Cồ Việt khiến sứ nhà Tống phải dè chừng.
Khi đến kinh đô Hoa Lư, vua Lê bố trí sẵn đại quân trang phục chỉnh tề, gươm giáo sáng loáng tập trận trên các sườn núi, trống trận nổi lên sĩ khí reo hò dậy đất; phía dưới sông nhiều chiến thuyền với tinh kỳ bay rợp trời đất, khiến sứ thần nhà Tổng cả sợ.
Theo quy định thì vua Lê Đại Hành phải quỳ xuống khi nhận sắc phong của thiên triều, thế nhưng nhà vua nhất quyết không quỳ và giải thích rằng “đích thân đánh giặc Mán, ngã ngựa đau chân nên không quỳ được”. Sứ nhà Tống không làm gì được, lại vừa tận mắt thấy binh lực hùng hậu của Đại Cồ Việt nên bỏ qua.
Vua Lê dùng đại tiệc tiếp đãi sứ giả và cho xem màn biểu diễn binh lính đánh hổ, nhằm cho sứ giả thấy sức mạnh binh sĩ.
Sau đó vua Lê Đại Hành nói với vua Tống rằng, để tránh việc đón tiếp sứ giả tốn kém, thì sứ giả nước Tống chỉ cần đến địa giới đưa thư và báo tin là được, Đại Cồ Việt sẽ có người ở biên giới lấy thư, vua Tống chấp nhận điều này.
Để khẳng định thế mạnh của Đại Cồ Việt, vua Lê Đại Hành cũng cho quân tiến đánh nhà Tống. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi chép rằng, năm 996 hơn 100 chiến thuyền Đại Cồ Việt tiến đánh trấn Châu Hồng (Khâm Châu) của nhà Tống. Vua Tống được tin không những làm lơ mà còn sai sứ giả là Lý Nhược Chiếu mang chiếu thư và đai ngọc sang tặng cho vua Lê.
Khi sử giả đến, vua Lê Đại Hành nói thẳng thừng rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi đâu”.
Phiên Ngung là địa danh thuộc tỉnh Quảng Châu, còn Mân Việt là tỉnh Phúc Kiến ngày nay. Vua Lê nhắc nhở vua Tống rằng những vùng đất đó đều là của người Bách Việt đã được phân rõ từ xưa.
Cũng trong năm này, quân Đại Cồ Việt cũng tiến đánh Ung Châu của nhà Tống, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép rằng: “Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu nước ta lại đem 5 nghìn hương bình xâm lược Ung Châu nước Tống.”
Khi quan tướng nước Tống quấy nhiễu ở biên giới với Đại Cồ Việt vào năm 997, chính vua Tống đã định tội những người này, thậm chí còn xử chém.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục có chép lại rằng: “Trương Quan lại dâng thư nói rằng nhà vua bị họ Đinh xua đuổi, thu nhặt đám quân còn sót, ra ở nơi hải đảo, cướp bóc để độ thân, nay đã mất rồi. Vua Tống sai thái thường thừa là Trần Sĩ Long làm Thái phóng sứ, sang dò hư thực, mới biết những lời Trương Quan đều dối trá cả, bèn xuống chiếu nghị tội bọn Trương Quang.”
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép sự việc này như sau: “Nhà Tống xử tội bọn Trương Quan, Quan đã ốm chết, chém Vệ Chiêu Mỹ ở trấn Như Hồng.”
Bằng cách ngoại giao rất cương quyết, biên giới của nước Đại Cồ Việt luôn được giữ vững, nước Tống và Chiêm Thành đều nể sợ mà không dám xâm phạm.