Đại ca Hủng Trăn: không còn sự tìm diệt

Billgate Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Với mặt hồ rộng hàng trăm ha và nhiều hòn đảo lớn, nhỏ, cha con anh trồng keo, trồng tràm, tạo công ăn việc làm cho gần chục công nhân. Hình như còn chút ngang tàng để anh “dám làm”, chút phiêu du giang hồ để anh mơ mộng.
Đại ca Hủng Trăn: không còn sự tìm diệt
Cơ ngơi đáng ngưỡng mộ của Phan Trọng Luơng

Khi ông chủ rừng thuộc giờ đi ăn, đi ngủ đàn chim

Không chỉ có rừng, Phan Trọng Lương còn nhận thầu, quản lý và bảo vệ khu sinh thái đập Vệ Vừng, con đập trọng yếu của Yên Thành, với mặt hồ rộng hàng trăm ha và nhiều hòn đảo lớn, nhỏ trồng keo, trồng tràm, tạo công ăn việc làm cho gần chục công nhân. Hình như còn chút ngang tàng để anh "dám làm", chút phiêu du giang hồ để anh mơ mộng với những dự án giữ lại vẻ đẹp một thắng cảnh quê hương.

Từ con thuyền nhỏ, đến con thuyền máy tự chế, bây giờ anh mua ca nô để làm nhiệm vụ "tuần đảo, tuần hồ" mỗi ngày. Tất cả đã là máu thịt của anh, không chỉ là những cây dẻ đang độ thanh xuân, mà còn là 18,2 triệu mét khối nước hồ Vệ Vừng, là những đàn cò, đàn diệc, đàn le le...nháo nhác tìm về Động Nảy, Động Hòn Biền, Động Bạch Đàn...

Anh xót xa khi vùng sinh thái "của mình" bị xâ‌m lấ‌n bởi rác thải, xót xa khi thấy "những con chim bay hoảng về đây, có con bị thương, có con hãi hùng. Ở đâu đó, chúng đã bị săn bắn, bị giết hại".

Thế rồi năm 2011, khi anh vừa ra hồ về với nỗi xót xa khi chứng kiến sự hoảng sợ của đàn chim, mở ti vi anh lại bắt gặp một phóng sự quay cảnh người dân bảo vệ đàn cò ở Bắc Giang, anh vội vã xách xe đi một mạch tới huyện. Anh gõ cửa Phòng Tài nguyên, Phòng Nông nghiệp, Hạt Kiểm lâm  để hỏi cách xin được bảo vệ đàn chim ở Vệ Vừng. Cuối cùng thì anh đã thỏa nguyện...

Thế rồi chúng tôi cũng theo Phan Trọng Lương ra phía bến nước, nơi neo đậu những con thuyền của anh. Chiếc ca nô sơn trắng rẽ mặt hồ phẳng lặng đưa chúng tôi ra cùng với đảo, với những đàn chim trời đang mải miết tìm về những nhành cây ấm dưới màu trời xám xịt.

Lương cho ca nô đi chầm chậm, bớt đi tiếng nổ động cơ. Nhìn đàn chim nháo nhác chao liệng bay dậy cả cánh rừng keo, rừng tràm, chúng tôi đều sửng sốt như thấy điều kỳ vĩ. Nhiều chim quá, nhiều nhất là cò trắng. Lương nói, dễ có đến hàng vạn con cò. Ngoài ra còn có hàng ngàn con vạc, rồi le le, diệc mốc, cu ngói... Cứ độ từ 4h30 phút chiều là chúng bắt đầu từng đàn bay về trú ngụ trên đảo sau một ngày đi kiếm ăn khắp nơi. Mỗi sáng, chúng bay đi quãng 6 giờ. Anh thuộc từng giờ đi, giờ ngủ, cả những căn bệnh của chúng.

Lương kể: Mùa đông này, cò thường bị khô chân. Rồi thịt xương cũng rút khô dần, tội lắm. Ngoài ra, chúng còn bị chết do bị dính bẫy hay bắn hạ. Có những con bay về nơi này, rồi gục, vạch thân ra thấy còn nguyên vết đạn. Trước đây, chim bay nhiều về động Nẩy, nhưng có một thời bị người ta săn dữ quá, bây giờ chúng chuyển sang động Hòn Biền (còn gọi là động Dành Dành).


Những cái "động" thực chất là những hòn đảo lớn nhỏ nổi lên giữa hồ nước mênh mang. Dõi mắt theo những đôi cánh chấp chới ngoài xa, Lương kể cho chúng tôi nghe về những lần anh bắt được người đi săn trộm: "Phải tới cả chục vụ rồi.

Có lần còn bắt được 3 thợ săn với 2 khẩu súng đã lên nòng, tôi đưa lên thuyền, giao lại cho các anh kiểm lâm. Bây giờ, tôi canh gắt hơn, nên nạn săn bắt không còn nhiều, nhưng cò dính bẫy nơi khác thì khó mà giảm được. Tôi nhận thấy, hình như chim trên đảo có vẻ không thật thích nghi với cây tràm. Giá mà có thể trồng tre cho chúng tìm về đậu"...

Lương bỏ lửng lời mong mỏi, tắt máy ca nô để nó đứng im giữa mặt hồ đầy mưa. Xa kia, có một con thuyền nhỏ cuốn xong lưới tôm đang neo vào bờ đảo. Người công nhân làm việc tận thu thủy sản cho anh lên bờ và nhen lửa bằng những cành củi khô để nấu bữa cơm chiều. Đàn bò được gia đình anh Lương th‌ּả rôn‌ּg trong rừng cây.

Ca nô cập bến. Lương xách từ tấm lưới thả dưới chân bè nứa những chú cá gáy, cá mè, cá trắm hàng chục cân lên cùng. Anh nhất định bắt chúng tôi phải nhận một con cá to làm quà. Hủng Trăn khi này đã sẫm đen. Phía trên kia, chỉ còn nghe tiếng rừng dẻ xạc xào trong gió lạnh.

Lương cũng nhìn lên phía ấy, nơi cha con anh đã đổ những giọt mồ hôi chát mặn bao năm qua. Không biết nhà văn Nguyễn Xuân Phầu đã nghe "gió từ phía Hủng Trăn" bằng đôi tai hay trái tim ông. Ông đã kết thúc bài ký của mình với hình ảnh út Lương với dáng đi khẩn khoản trong đêm tối. Còn bây giờ, thì người đàn ông gần 40 tuổi ấy đang đứng lặng vẫy bàn tay theo xe chúng tôi dần xuống dốc Hủng Trăn.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật