Bạn có nhận ra cái thức gì đựng trong chén nhỏ sứ trắng và người ăn xòe cả lòng bàn tay đỡ lấy chén nước nóng hổi giữa cái lạnh tê buốt của chập tối mùa đông? Ngoài trời mưa phùn gió bấc, những cơn gió mang hơi ẩm và lạnh buốt từ phương Bắc cứ luồn lỏi khắp các phố phường, các ngả đường Hà Nội, nó làm cho trời sao mà mau tối, những căn nhà cũ như muốn thu lu nhỏ hơn vì rét, những giọt mưa li ti làm đôi má của mọi người mất đi cái hồng hào vốn dĩ, đôi môi trở nên nhợt nhạt, hơi thở từ hai lỗ mũi như là khói mờ. Trong cái “e” như thế thì bạn mới sửng sốt khứu giác bởi cái hơi nóng ngòn ngọt sực hương gừng tươi mà ấm, len lỏi trong đó có lảng vảng nhưng không hề e ấp của mùi vừng rang thơm như hương một thứ thời trân quý báu. Đó là bánh trôi Tàu.
Bánh trôi Tàu đâu có xa lạ gì với người Việt, đã từ rất lâu, nó là món quà hiền lành được mang sang nước ta bởi những người Minh Hương cũng rất hiền lành nhưng xởi lởi và hiếu khách. Bánh trôi Tàu giờ đã khá nhiều tuổi rồi, nó được biến tấu và triệt để Việt hóa nhưng vẫn giữ cái tên như là một kỷ niệm êm đềm về một thời lãng mạn của tinh hoa tứ xứ. Bánh trôi Tàu không phải là thứ để cho ăn no, thường người ta chỉ ăn một, cùng lắm là hai chén. Thành phố, thị trấn nào cũng có bán bánh trôi Tàu nhưng ăn cho ngon là phải ăn vào lúc nào và mùa nào, dĩ nhiên còn ăn với ai nữa...
Lạ lùng thật, cái món ẩm thực này cấm không bao giờ vào các “rét-tô-răng” hay nơi ghế cao bàn kính. Nó sẽ chỉ sừng sững trong tâm tưởng những kẻ xa quê khi cái hình ảnh mùa đông lạnh lẽo lất phất mưa phùn, bầu trời thì u xám nặng sũng nước, những đợt gió bấc cứ nối theo nhau trở về ngày càng gấp gáp và tự nhiên muốn quấn kĩ cái khăn phu–la lên, dựng cao cái cổ áo lạnh và mong được tay vén và cúi đầu lọt qua tấm liếp để vào trong cái quán nhỏ như năm nảo năm nao và rồi ngồi một chiếc ghế gỗ thâm thấp, tì cùi trỏ trên cái bàn khá là chông chênh để chờ một chén bánh trôi Tàu thơm sực và nóng hổi.