Đoạn sông Đà chảy trên lãnh thổ Việt Nam dài đến hơn 500 km. Dòng sông hung hãn mà gắn bó với bao cổ tích.
Dòng sông của thủy thần hàng năm dâng lũ “đời đờn đánh ghen”, dòng sông bất kham “chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”, dòng sông của “trăm bẩy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” để Nguyễn Tuân viết nên thiên ký sự bàng bạc màu sông nước...
Sông Đà không chỉ “ăn đời ở kiếp” với các dân tộc vùng cao Tây Bắc Việt Nam như Thái, Mường mà còn là một dòng sông năng lượng lớn với hàng loạt hệ thống thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu...
Đập thủy điện Hòa Bình đứng sừng sững như một minh chứng về lòng quả cảm, sự quyết tâm của những con dân đất Việt: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên”.
Nhưng sông Đà không chỉ được biết đến với đập thủy điện Hòa Bình, với bến thuyền Thung Nai, với Hạ Long trên cạn, với nhà nghỉ cối xay gió mà còn ấn tượng với những gì dung dị và đời thường.
Một ngư tiều gỡ lưới trên chiếc thuyền nan, một xóm vại chài chập chềnh theo sóng nước, một mái chèo khua nhẹ giữa thinh không và một thế giới của những gốc gỗ già nua, tuổi tác dưới dòng Đà giang.
Mỗi công trình thủy điện được xây dựng nên là hàng trăm, thậm chí hàng nghìn ha rừng bị đốn hạ để phục vụ cho dòng điện quốc gia. Đâu đó vào mùa cạn, hàng trăm gốc gỗ xù xì đủ loại từ tre, trúc cho đến những thân gỗ bằng vòng tay người ôm. Tất cả chúng tựa như một trận đồ gỗ dưới lòng sông Đà...