Liên kết để Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất cà phê của thế giới

Star Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Các mô hình hợp tác công tư đã chứng minh được hiệu quả bước đầu trong phát triển chuỗi giá trị cà phê Việt Nam. Tiếp tục phát huy và nhân rộng các mô hình này sẽ giúp ngành cà phê có được sự phát triển bền vững, nắm bắt được các cơ hội to lớn từ các hiệp định thương mại đã và sắp đi vào thực thi trong thời gian tới.
Liên kết để Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất cà phê của thế giới
Đảm bảo lợi ích cho người nông dân là yếu tố then chốt để giữ vững nguồn cung và nâng cao chất lượng cho hạt cà phê.

Nhu cầu liên kết ngày càng tăng

Ông Đặng Kim Sơn, chuyên gia nông nghiệp cấp cao nhận định, các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP sẽ mở ra cơ hội lớn cho các DN sản xuất chế biến và xuất khẩu cà phê khi mà thuế xuất khẩu của Việt Nam có thể về gần 0%. “Đây là lợi thế vô cùng lớn, giúp Việt Nam không chỉ là trung tâm trồng trọt cà phê mà còn có thể là trung tâm sản xuất cà phê của thế giới” – ông Sơn nói.

Trước cơ hội vàng đó, nhu cầu liên kết dọc trong mỗi chuỗi ngành hàng và liên kết ngang với các DN, các tổ chức liên quan và chính quyền địa phương là nhu cầu tự thân đang trở nên ngày càng nóng bỏng hơn. Theo đó, nông dân thì muốn tăng cường năng suất, sản lượng, có thị trường ổn định; DN xuất khẩu cần vùng nguyên liệu, xây dựng thương hiệu, xác lập tiêu chuẩn đảm bảo, cần chế biến sâu. DN đa quốc gia cũng muốn vùng nguyên liệu ổn định và theo hướng phát triển bền vững để đi sâu hơn vào chuỗi giá trị cà phê toàn cầu. Chính phủ thì mong đợi đẩy ngành hàng cà phê lên thành ngành nông sản lớn.

Trong giai đoạn 1 (2010-2017), với kế hoạch xây dựng mô hình vườn mẫu theo hướng sản xuất bền vững, hợp tác công tư (PPP) trong ngành hàng cà phê Việt Nam đã kết nối được 3.220 hộ nông dân với tổng diện tích 5.262 ha… Kết quả, năng suất cà phê tăng 17%; thu nhập trung bình của nông dân trong mô hình tăng 14%; tiết kiệm được 40% lượng nước tưới; giảm 55% lượng phát thải nhà kính nhờ sử dụng phân bón hợp lý… Các hoạt động như hội thảo, tập huấn đầu bờ, chuẩn bị lực lượng nhân sự... đã tạo nên một nền tảng kỹ thuật rất tốt cho các nông hộ, DN tham gia, hướng tới sản xuất bền vững…

Theo ông Lê Văn Đức, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, các mô hình hợp tác đã góp phần quan trọng giúp cho cà phê trở thành ngành hàng nông sản chủ lực có diện tích được chứng nhận lớn nhất hiện nay. Cà phê hiện là 1 trong 2 ngành hàng nông sản chủ lực đã khá toàn diện khi có hiệp hội ngành hàng, có viện nghiên cứu chuyên ngành, có ban điều phối, có các DN xuyên quốc gia và các tổ chức quốc tế hỗ trợ, đầu tư.

Chia sẻ lợi ích để giữ chân nông dân

Theo các chuyên gia, các hoạt động liên kết chỉ mới dừng lại ở mức độ các mô hình và chưa được nhân rộng. Việc kết nối với thị trường ở các mô hình còn kém bền vững, chưa xây dựng được chuỗi giá trị cà phê hoàn thiện trên quy mô lớn, chưa có sự tham gia đông đảo của DN trong nước. Vai trò hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và chính sách nhà nước thực tế chưa được như mong muốn…

Ngoài ra, theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn – Phó Trưởng Ban điều phối ngành hàng cà phê (VCCB), Phó viện trưởng viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), trong hợp tác công tư, nhóm “dưới ruộng” làm tốt nhất, còn lại các nhóm thương mại, chế biến vẫn còn yếu. Các DN chế biến xuất khẩu cà phê chủ yếu thu mua qua trung gian khiến cho giá trị thực tế chuyển giao về tay người nông dân còn hạn chế và chất keo gắn kết nông dân và DN còn lỏng lẻo. Kèm theo đó là việc thiếu kiểm soát chất lượng cà phê và sự ảnh hưởng tới môi trường do canh tác tự phát. Cơ chế thu mua phân loại cũng chưa tạo động lực cho nông dân để họ tự nâng cao chất lượng cà phê.

TS. Trương Hồng, quyền viện trưởng viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cũng lưu ý về lợi ích của người nông dân trong hợp tác công tư. Đặc biệt, trong tình hình bất lợi cả về điều kiện canh tác lẫn giá cả, nông dân có xu hướng chuyển đổi sang các giống cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn. Cụ thể, cần có cơ chế để các mắt xích khác như DN, nhà cung ứng vật tư… phải chia sẻ bớt giá trị gia tăng cho nông dân. “Có như vậy mới giữ chân người nông dân với cây cà phê. Còn cứ để cung-cầu thị trường quyết định giá thu mua cà phê như hiện nay thì dù ngành cà phê chế biến và kinh doanh thương mại có mạnh tới đâu, tăng giá trị gia tăng bao nhiêu đi nữa thì nông dân vẫn cứ khổ mãi và nguồn cung vẫn cứ bấp bênh…” – ông Hồng nhận định.

Minh chứng rõ hơn cho điều này, ông Hồng cho hay, hiện sản lượng cà phê có chứng nhận của Việt Nam là 300 tấn/năm, nhưng chỉ bán được 1/3 nên không khuyến khích được nông dân làm chứng nhận.

Theo ông Hồng, một kg cà phê nhân có giá 50.000 đồng, sau khi chế biến giá bán lên đến 300.000 đồng. Khoảng giữa là khoảng lợi nhuận ròng, trừ chi phí đi có thể còn lợi nhuận 100.000 đồng. Có thể giữ lại khoảng 5.000-10.000 đồng trả lại cho nông dân, thông qua DN mua hàng. Làm như vậy người nông dân sẽ bớt thiệt thòi trong chuỗi giá trị ngành cà phê và cũng giúp giữ chân họ với loại cây trồng này.

Ông Tuấn cho biết, thời gian tới ngành Nông nghiệp hướng đến chương trình cà phê chất lượng cao nhằm mang về thu nhập tốt hơn cho nông dân. “Chúng ta không sản xuất nhiều hơn nhưng sẽ sản xuất tốt hơn theo quy chuẩn bền vững hơn. Trên cùng diện tích đất người nông dân sẽ thu nhập nhiều hơn”, ông Tuấn khẳng định.

Trong giai đoạn 2 (2018-2020), PPP trong ngành hàng cà phê sẽ tập trung đẩy mạnh liên kết chuỗi để gia tăng giá trị cà phê Việt Nam, với các mục tiêu cụ thể: Có trên 80.000 hộ nông dân tham gia với 97.000 ha; thu hút sự tham gia của nhiều đối tác như Nestlé Việt Nam, GCP, IDH, Yara, Bayer, EDE, ACOM, OLAM, Simexco, WASI… Để đạt được kết quả đó, ngành cà phê sẽ mở rộng mô hình hợp tác công tư cà phê có tính nhân rộng cao; tăng cường đo lường và giám sát hiệu quả thực hiện; tăng cường kết nối giữa các tiểu ban VCCB và những dự án liên quan nhằm đẩy mạnh kết nối chuỗi giá trị.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật