Khi không còn mưa thuận gió hòa

Star Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Trong vòng 20 năm qua, ở nước ta, mỗi năm, thiên tai làm trên 300 người chết và mất tích, thiệt hại về vật chất chiếm khoảng 1% - 1,5% GDP, ảnh hưởng đến điều kiện sống của nhiều người dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Thiên tai đã và đang là nỗi lo lớn đối với toàn xã hội.
Khi không còn mưa thuận gió hòa
Các lực lượng quân đội và công an nỗ lực đào bới, tìm kiếm 4 nạn nhân bị mất tích tại khu vực sạt lở ở xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ, Lai Châu. Ảnh: TTXVN

Thiên tai dồn dập, khó lường

Năm 2017 được xem là một năm kỷ lục về thiên tai ở Việt Nam. Theo thống kê của Tổng Cục Phòng chống thiên tai - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong năm, cả nước phải hứng chịu và chống chọi với 16 cơn bão, 04 áp thấp nhiệt đới, 22 đợt thiên tai có cấp độ rủi ro từ cấp 3 trở lên, trong đó có nhiều trận lũ quét, sạt lở đất trên diện rộng tại các tỉnh miền núi phía Bắc, gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Thiên tai đã làm chết và mất tích 386 người, 654 người bị thương, 8.166 căn nhà bị đổ trôi, 610.000 căn nhà bị ngập, hư hỏng, 364.000 ha lúa hoa màu và 60.400 ha nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng, với tổng thiệt hại về kinh tế lên đến 60.000 tỷ đồng (tăng 300% so với mức thiệt hại trung bình hằng năm của nhiều năm trước). Riêng trong 7 tháng đầu năm 2018, đã có 03 cơn bão, 04 áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào nước ta, 151 trận giông, lốc, sét, 08 trận lũ quét, sạt lở đất làm 109 người chết và mất tích, 843 căn nhà bị bổ trôi, 18.586 căn nhà bị ngập, hư hỏng, phải di dời, 90.819 ha lúa hoa màu bị hư hỏng, tổng thiệt hại ước tính trên 2.500 tỷ đồng.

Ở khu vực Nam Bộ, năm 2017 chịu ảnh hưởng trực tiếp của 05 cơn bão và ấp thấp nhiệt đới; 240 trận giông, lốc xoáy, sét kèm theo mưa lớn; các vụ sạt lở bờ sông liên tiếp xảy ra (nếu tính từ năm 2010 đến hết tháng 6-2018, ở Nam Bộ đã có 562 điểm sạt lở bờ sông với chiều dài 786km; 49 điểm sạt lở bờ biển, với chiều dài 266km), gây nhiều thiệt hại về nhân mạng, nhà cửa, tài sản, lúa, cây trồng, hoa màu, hệ thống điện, đường giao thông,… Tính chung, trong năm 2017, ở khu vực Nam Bộ, thiên tai đã làm 28 người chết và mất tích, 46 người bị thương, 937 căn nhà bị sập, 4.735 căn nhà bị thiệt hại, tốc mái, làm hư hại hơn 68.000 ha lúa, 4.785 ha rau màu, hơn 600 ha nuôi trồng thủy sản,… Tổng thiệt hại về kinh tế ước khoảng 901 tỷ đồng.

Nhìn chung, theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, những năm gần đây, ở nước ta, thiên tai xảy ra ngày càng dồn dập, khốc liệt, dị thường, khó lường, trái quy luật nhiều năm trước. Thiên tai ngày càng gia tăng cả về mức độ, cường độ với nhiều loại như: bão mạnh, siêu bão ngoài biển Đông; mưa lũ, lũ chồng lũ tại khu vực miền Trung; lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng tại nhiều tỉnh miền núi phía Bắc; sạt lở bờ sông, bờ biển tại hầu hết các vùng, miền (nghiêm trọng nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long); hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài và có xu hướng ngày càng tăng. Tính chung, trong 20 năm qua, mỗi năm thiên tai làm chết và mất tích trên 300 người, thiệt hại về vật chất chiếm khoảng 1% - 1,5% GDP, ảnh hưởng đến điều kiện sống của nhiều người dân và sự phát triển bền vững của đất nước.

Nỗ lực phòng, chống thiên tai và những khó khăn, bất cập

Trong nỗ lực ứng phó nhằm hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra, thời gian qua, cùng với các địa phương trong cả nước, các tỉnh, thành khu vực Nam Bộ đã đẩy mạnh các hoạt động chủ động phòng, chống thiên tai. Theo thống kê của Tổng cục phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), tính đến cuối tháng 7-2018, trong số 19 tỉnh, thành khu vực Nam Bộ đã có 13 tỉnh, thành có Kế hoạch phòng, chống thiên tai giai đoạn 2016 - 2020; 12 tỉnh, thành có Kế hoạch phòng, chống thiên tai năm 2018; 18 tỉnh, thành có phương án ứng phó với các cấp độ rủi ro thiên tai; 18 tỉnh, thành đã có Văn phòng Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai do Chi cục Thủy lợi kiêm nhiệm; 17 tỉnh, thành đã xây dựng được Quỹ phòng, chống thiên tai; 19 tỉnh, thành đều có phương án ứng phó với bão mạnh, siêu bão. Trong đó, một số tỉnh như Cà Mau, Bến Tre đã xác định rõ những nguy cơ thiên tai trên địa bàn do tác động của biến đổi khí hậu; từ đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp, phương án cụ thể để ứng phó với từng loại hình thiên tai thông qua việc phân công nhiệm vụ phòng, chống, bố trí nguồn lực thực hiện,…

Trong công tác truyền thông phòng, chống thiên tai, nhiều địa phương đã chủ động tăng cường các chương trình hướng dẫn kỹ năng phòng, chống thiên tai trên các cơ quan truyền thông đại chúng; xây dựng các phim ngắn, câu chuyện truyền thanh về chủ động phòng, chống thiên tai; cập nhật, phổ biến thông tin về phòng, chống thiên tai trên các trang mạng xã hội; chủ động thông báo bằng tin nhắn về nguy cơ thiên tai cho các thuê bao điện thoại trong vùng có nguy cơ cao. Những năm gần đây, do tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển gia tăng, nhiều tỉnh, thành Nam Bộ đã công bố bản đồ sạt lở; chỉ đạo cắm biển báo ở những khu vực có nguy cơ sạt lở cao; thường xuyên rà soát các vị trí sạt lở nghiệm trọng để kịp thời báo các cấp thẩm quyền có phương án xử lý. Nhiều địa phương như huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau đã tổ chức tốt lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai tại cơ sở với nòng cốt là lực lượng dân quân tự vệ. Lực lượng này có quy chế và nhiệm vụ hoạt động cụ thể, thường xuyên được tập huấn để trở thành lực lượng xung kích, chủ động ứng cứu, giảm nhẹ thiệt hại cho cư dân địa phương khi có thiên tai xảy ra.

Tuy nhiên, cũng như nhiều vùng, miền khác trong cả nước, công tác phòng, chống thiên tai ở các địa phương khu vực Nam Bộ cũng đang gặp nhiều khó khăn, bất cập. Theo nhận định của Tổng cục phòng, chống thiên tai, những khó khăn, bất cập đó là:

Tình hình thiên tai ngày càng nhiều và lớn cả về cường độ, số lần xuất hiện, diễn biến ngày càng phức tạp, rất nhiều vụ xảy ra bất ngờ, không theo quy luật, khó dự báo, cảnh báo, vượt quá khả năng chống chịu của phần lớn hệ thống phòng, chống thiên tai ở các địa phương hiện nay.

Quy mô nền kinh tế ngày càng lớn, dân số ngày càng tăng, số lượng các hoạt động kinh tế, dịch vụ, xã hội có nguy cơ gặp rủi ro do thiên tai gây ra ngày càng nhiều. Trong khi đó, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phòng, chống thiên tai ở một số ngành, địa phương còn nhiều nội dung chưa phù hợp, chưa đồng bộ, chưa sát thực tế.

Tình trạng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng với nhiều công trình hạ tầng kinh tế lớn ngày càng nhiều nhưng lại chưa chú trọng đến khả năng chống chịu với những rủi ro do nhiều loại thiên tai gây ra - nhất là hệ thống đê điều, hồ đập, khu neo đậu cho tàu thuyền tránh trú bão, gió lớn, nhà ở, các công trình, địa điểm di dân để phòng, tráng thiên tai.

Hệ thống cảnh báo, thông tin, truyền thông tới cộng đồng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, còn rất thiếu, khó phát triển; thiếu nguồn lực để di dân ở những vùng có khả năng bị thiên tai và những vùng bị thiên tai khi cần thiết. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí đầu tư cho việc ứng dụng khoa học - công nghệ để dự báo, phòng ngừa và khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra còn rất hạn chế.

Hệ thống Pháp Luật và các cơ chế, chính sách liên quan như Luật Đê điều, Luật Phòng, chống thiên tai và các Nghị định hướng dẫn thực hiện đã và đang bộc lộ nhiều bất cập so với tình hình thực tế, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Một số cơ chế, chính sách chưa ban hành kịp thời, còn thiếu đồng bộ, nhất là các cơ chế, chính sách về tài chính; về lồng ghép nội dung phòng, chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; về huy động sự tham gia của cộng đồng trong phòng, chống thiên tai;…

Hầu hết các tỉnh, thành đều chưa có cơ quan chuyên trách về phòng, chống thiên tai với các bộ phận tham mưu chuyên sâu, phần lớn đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; cán bộ phụ trách phòng, chống thiên tai cấp huyện và xã vừa thiếu vừa yếu. Thêm vào đó, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ công tác phòng, chống thiên tai thiếu thốn khiến cho lực lượng làm nhiệm vụ khó khăn trong công tác theo dõi, giám sát, cảnh báo và tham mưu với cấp ủy, chính quyền trong công tác phòng, chống thiên tai.

Nâng cao tính chủ động trong phòng, chống thiên tai

Theo dự báo của nhiều cơ quan chuyên trách về phòng chống thiên tai trong và ngoài nước, trong những năm tới, Việt Nam được xác định là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng và thiệt hại nặng nề nhất do tác động của tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng làm cho cường độ thiên tai gia tăng, thiên tai xuất hiện dày hơn, tần suất thiên tai trung bình hằng năm lớn hơn, xuất hiện nhiều hơn những đợt thiên tai cực đoan, bất ngờ, trái với quy luật trước đây. Do đó, để tăng cường tính hiệu quả trong công tác phòng, chống thiên tai, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra, đòi hỏi công tác này phải được nâng cao về tính chủ động và có được một hệ thống những quan diểm chỉ đạo, mục tiêu, giải pháp thực hiện đồng bộ.

Ngày 18-6-2018, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP về công tác phòng chống thiên tai, trong đó xác định các giải pháp toàn diện, căn cơ và phân công nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương trong cả nước triển khai thực hiện. Theo Nghị quyết này, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành cần quán triệt 06 quan điểm chỉ đạo trong công tác phòng chống thiên tai thời gian tới. Đó là: (1) Phải xem phòng, chống thiên tai là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của người đứng đầu địa phương và của toàn dân, toàn xã hội; (2) Thực hiện phòng chống thiên tai theo hướng quản lý rủi ro tổng hợp theo lưu vực, liên vùng, liên ngành, phải đánh giá đầy đủ các tác động làm gia tăng rủi ro thiên tai để từ có có giải pháp ứng phó chủ động; (3) Phải lấy phòng ngừa là chính, thực hiện tốt phương châm “04 tại chỗ” gắn với xây dựng cộng đồng an toàn, nông thôn mới; (4) Kết hợp giải pháp công trình và phi công trình theo hướng đa mục tiêu; khôi phục, tái thiết bảo đảm tính bền vững và yêu cầu xây dựng lại tốt hơn; (5) Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào lĩnh vực phòng, chống thiên tai; (6) Bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế về phòng, chống, giảm nhẹ rủi ro thiên tai mà Việt Nam tham gia.

Mục tiêu chung được đề ra trong công tác phòng chống thiên tai những năm tới là phải nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; giảm tổn thất về người và tài sản của nhân dân, Nhà nước; tạo điều kiện phát triển bền vững, góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh; từng bước xây dựng cộng đồng, xã hội, an toàn trước thiên tai.

Nghị quyết số 76/NQ-CP đã đề ra 07 nhóm giải pháp tổng thể, trong đó tập trung vào một số nội dung sau:

Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách:

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn bản quy phạm Pháp Luật bảo đảm tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống thiên tai trong tình hình mới.

Có chính sách cụ thể thúc đẩy xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia công tác phòng, chống thiên tai.

Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy:

Kiện toàn, nâng tầm hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai; tăng cường năng lực tham mưu chỉ đạo, điều hành của Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các cấp.

Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng chống thiên tai và xây dựng đội ngũ làm công tác phòng chống thiên tai các cấp theo hướng đồng bộ, thống nhất, chuyên nghiệp.
Nhóm giải pháp về kết cấu hạ tầng:

Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm việc tiếp nhận, xử lý thông tin kịp thời, hỗ trợ ra quyết định phục vụ công tác chỉ đạo, chỉ huy ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Đầu tư hiện đại hóa, tự động hóa hệ thống quan trắc, đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động khí tượng thủy văn. Song song đó, chú trọng đầu tư, nâng cao khả năng chống chịu rủi ro thiên tai của hệ thống cơ sở hạ tầng.

Nhóm giải pháp về thông tin truyền thông, đào tạo:

Đầu tư trang thiết bị dự báo, cảnh báo thiên tai đến các cấp chính quyền và người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa; bảo đảm thông tin về phòng, chống thiên tai và những nguy cơ do thiên tai phải đến được với người dân đầy đủ, kịp thời.

Tăng cường, đa dạng hóa các phương thức truyền thông và hoạt động phổ biến kiến thức phòng, chống thiên tai trong cộng đồng, nhà trường, nhất là cấp tiểu học và trung học cơ sở, phù hợp với điều kiện và đặc thù của từng vùng, miền.

Nhóm giải pháp về nguồn lực tài chính:

Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính cho phòng, chống thiên tai; đẩy mạnh xã hội hóa, tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ liên quan đến hoạt động khí tượng thủy văn và phòng, chống thiên tai.

Sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư, dự phòng ngân sách cho phòng, chống thiên tai; nghiên cứu, hoàn thiện các quy định liên quan đến thu - chi quỹ phòng chống thiên tai và bảo hiểm rủi ro thiên tai, quỹ dịch vụ viễn thông công ích.

Nhóm giải pháp về khoa học - công nghệ:

Đẩy mạnh hợp tác, thông tin, kinh nghiệm về phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, nhất là với các quốc gia thượng nguồn sông Hồng, sông Mê Công và các quốc gia trong khu vực ASEAN.

Phối hợp với các tổ chức quốc tế trong hoàn thiện khung khổ pháp lý, xây dựng chiến lược quốc gia về quản lý rủi ro thiên tai và phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về rủi ro thiên tai.

Riêng đối với khu vực Nam Bộ, nơi được dự báo là sẽ tiếp tục chịu tác động nặng nề của thiên tai trong những năm tới do tình trạng biến đổi khí hậu - nước biển dâng, vấn đề xây dựng các giải pháp phòng, chống thiên tai đồng bộ để đảm bảo cho sự phát triển bền vững càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở Nghị quyết số 76/NQ-CP, bên cạnh những giải pháp tổng thể đã nêu, ở khu vực Nam Bộ (nơi mà nhiều người dân vẫn còn thiếu kinh nghiệm và chưa chủ động trong công tác phòng, chống thiên tai), năm 2018 và những năm tiếp theo cần chú trọng thực hiện thêm một số nội dung trọng tâm sau trong công tác phòng, chống thiên tai:

Một là, điều tra, đánh giá lại hiện trạng sạt lở bờ biển, bờ sông, từ đó xây dựng đề án bảo vệ bờ biển, bờ sông; củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển, phòng chống xói lở bờ biển; bố trí lại dân cư ven sông, kênh, rạch theo hướng hạn chế thiệt hại do sạt lở đất và bảo đảm cung cấp nước sạch gắn với xây dựng nông thôn mới.

Hai là, thường xuyên cập nhật bản đồ cảnh báo sạt lở; quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; chú trọng ứng dụng công nghệ mới để giảm giá thành, bảo đảm tính linh hoạt trong vận hành, khai thác (như công nghệ đê di động, ao hồ chứa nước hạn chế tốc độ dòng chảy,…).

Ba là, đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, cần xây dựng quy hoạch chỉnh trị sông, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển gắn với xây dựng và triển khai sớm đề án chống sạt lở cấp bách cho bờ sông, bờ biển; đồng thời phát động chiến dịch trồng và khôi phục rừng ngập mặn để bảo vệ khu vực bãi bồi ngập mặn ven biển.

Bốn là, xử lý nghiêm tình trạng xây dựng trái phép, không phép ven sông, kênh, rạch, nhất là những nơi đã có cảnh báo nguy hiểm. Song song đó, tổ chức lực lượng xung kích thường xuyên kiểm tra, phát hiện sớm những tình huống nguy cấp để giúp người dân di dời khỏi nơi nguy hiểm.

Năm là, các địa phương sớm điều chỉnh quy hoạch sản xuất, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng - vật nuôi phù hợp, tổ chức sản xuất, chuyển đổi sinh kế cho người dân thích ứng với những nơi thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai như: hạn hán, xâm nhập mặn, ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới,… (cụ thể như chuyển từ trồng lúa sang nuôi tôm đối với những nơi thường xuyên bị xâm nhập mặn).

Sáu là, chủ động xây dựng các phương án sẵn sàng sơ tán dân, nhất là ở khu vực cửa sông, ven biển; đồng thời thường xuyên tổ chức tập huấn, phổ biến cho người dân những kiến thức cơ bản, cần thiết để bảo vệ tính mạng, tài sản; lập phương án hỗ trợ người dân thu hoạch, tiêu thụ nông thủy sản khi có thiên tai xảy ra.

Bảy là, thường xuyên rà soát các phương án ứng phó với các cấp độ thiên tai, đặc biệt là các phương án ứng phó với bão mạnh, siêu bão; có phương án chủ động kiểm soát tốt tàu thuyền hoạt động trên biển, ở vùng cửa sông, ven biển; xây dựng, nâng cấp các khu đậu tàu thuyền tránh bão.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật