8 dấu hiệu nhận biết bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Sky Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có nguy hiểm không và khi bị mắc bệnh thường sẽ có những biểu hiện cụ thể nào,.. luôn là những câu hỏi được rất nhiều người quan tâm. Vậy, bạn đã biết gì về loại bệnh này?
8 dấu hiệu nhận biết bệnh trào ngược dạ dày thực quản
Ảnh minh họa

Những biểu hiện của bệnh trào ngược dạ dày thực quản?

  • Ợ hơi

Hơi sinh ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn trong dạ dày. Ợ hơi sau khi ăn no là hiện tượng sin‌ּh l‌ּý bình thường. Tuy nhiên khi cơ thắt thực quản dưới bị rối loạn chức năng co giãn, hơi sẽ bị thoát ra ngoài theo đường miệng ngay cả khi bụng rỗng.

  • Ợ nóng, ợ chua

Ợ nóng: là cảm giác nóng rát lan từ thượng vị lên dọc sau xương ức, có thể lan đến vùng hạ họng hoặc lên tận mang tai, kèm theo vị chua trong miệng. Hiện tượng này là do dịch vị trào ngược lên thực quản, tiếp xúc với niêm mạc gây cảm giác nóng, bỏng rát.

Ợ chua: Hiện tượng này thường xuyên xảy ra vào buổi sáng, đặc biệt khi đánh răng, hoặc lúc đói. Khi bụng rỗng, trương lực co bóp của dạ dày tăng lên cao nhất, đẩy dịch dạ dày lên tận cuống họng gây cảm giác ợ chua.

Các triệu chứng này tăng lên khi ăn no, khó tiêu đầy bụng, uống bia rượu, nước chua hoặc khi cúi gập người về phía trước, khi nằm nghỉ. Theo tiến sỹ Walter J. Coyle, chuyên gia dạ dày – ruột tại Đại học Torrey Pines Clinic (Califorinia, Mỹ): “Khi đứng thẳng, trọng lực giúp giữ thức ăn nằm yên trong dạ dày. Khi trọng lực giảm, hiện tượng trào ngược dễ xảy ra hơn”. Đó là lý do tại sao những người bị trào ngược dạ dày – thực quản mạn tính thường phải kê cao đầu khi ngủ và không nên ăn nhiều vào buổi tối trước khi ngủ.

Khi các triệu chứng ợ không được chữa trị thì bệnh sẽ tiến triển nặng hơn, với các biểu hiện sau:

  • Buồn nôn, nôn

Khi cơ thắt thực quản dưới yếu dần, không chỉ hơi hay dịch vị, mà cả thức ăn cũng có thể trào qua “cánh cửa này” để gây ra hiện tượng nôn, buồn nôn. Với tần suất thường xuyên, đây là triệu chứng ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng sống của người bệnh.

  • Đau, tức ngực

Người bệnh trào ngược thường có triệu chứng đau tức ngực, mà bản thân họ rất dễ nhầm sang các bệnh lý về tim mạch. Đó thực chất chỉ là cảm giác đau tại đoạn thực quản chạy qua ngực, không phải đau ngực hay đau tim. Axit trào ngược kíc‌h thí‌ch vào đầu mút các sợi thần kinh trên niêm mạc chính là tác nhân gây ra triệu chứng này.

  • Nhiều nước bọt

dịch vị trào ngược lên thực quản sẽ kíc‌h thí‌ch phản xạ bảo vệ c‌ơ th‌ể, cụ thể là tăng tiết nhiều nước bọt để trung hòa và rửa trôi lượng axit bị trào ngược lên thực quản, giúp giảm hiện tượng nóng rát. Điều này rất tốt vì bệnh nhân có thể không thấy đau, nóng rát ở ngực, nhưng gây phiền toái vì cảm giác thường xuyên dư thừa nước bọt trong miệng. Nhiều trường hợp do vậy không phát hiện ra nguyên nhân gốc rễ là do bệnh trào ngược dạ dày.

  • Khàn giọng, đau họng, ho, hen

Khàn giọng, ho là biểu hiện của vùng thanh quản, cuống họng bị viêm tấy do axit dịch vị trào lên. Hiện tương này nếu không chữa kịp thời sẽ tiến triển thành khàn giọng, ho mãn tính, có thể chuyển biến thành bệnh hen.

  • Khó nuốt

Khi niêm mạc thực quản thường xuyên phải tiếp xúc với axit dịch vị, nó sẽ bị viêm, phù nề, từ đó tạo ra cảm giác khó nuốt, vướng nghẹn vùng cổ họng. Vị trí phù nề lành lại vẫn có thể tạo sẹo gây chít hẹp thực quản làm gia tăng cảm giác khó nuốt.

  • Đắng miệng

Triệu chứng đắng miệng nếu có đi kèm với một hay nhiều các triệu chứng trên thường là biểu hiện kết hợp của hai bệnh trào ngược dạ dày và trào ngược dịch mật (dịch mật trào từ ruột non vào dạ dày, rồi theo dịch vị trào lên thực quản).

4 biến chứng của trào ngược dạ dày thực quản:

Hẹp thực quản

Biến chứng thường gặp nhất của bệnh là viêm, loét dẫn đến hẹp thực quản(còn gọi là sẹo thực quản). Người bệnh có thể gặp các triệu chứng khó chịu như: khó nuốt, đau khi nuốt, đau ngực, đặc biệt đau phía sau xương ức khi ăn uống, giảm sự thèm ăn.

viêm đường hô hấp

Chỉ một lượng nhỏ dịch axit trào vào đường hô hấp trên cũng có thể gây ra tình trạng ho, viêm họng, viêm mũi xoang, viêm phế quản, viêm phổi hoặc các bệnh lý mãn tính hô hấp khác.

Barrett thực quản

Barrett thực quản là tình trạng tiền ung thư thực quản. Khoảng 10% những người bị barrett sẽ tiến triển thành ung thư thực quản.

ung thư thực quản

Loại ung thư thực quản này thường gặp ở người trên 50 tuổi và có tỉ lệ t‌ử von‌g cao. Các triệu chứng cần nghĩ ngay đến ung thư thực quản là: khó nuốt, nuốt đau, ho khi nuốt, đau sau xương ức, đau lưng, ngực, buồn nôn, nôn ra máu, do khối u xâ‌m lấ‌n vào khí quản gây viêm phổi…

bệnh trào ngược dạ dày thực quản có phải dẫn đến ung thư không?

Như đã nói ở trên, việc biến chứng tổn thương ở thực quản hoàn toàn có thể dẫn đến ung thư thực quản.

Khi dịch dạ dày trào ngược lên thực quản, gây viêm thực quản được phân chia thành 5 cấp độ tổn thương trên hình ảnh nội soi dạ dày thực quản:

viêm thực quản trào ngược mức 0:

Ở mức độ này, khi nội soi, sẽ chưa thấy các vết viêm, hoặc trợt của niêm mạc thực quản. Tức là dịch dạ dày acid chưa gây tổn thương đến thực quản

viêm thực quản trào ngược độ A: Trên hình ảnh nội soi thấy ít nhất 1 vết trợt niêm mạc với chiều dài < 5mm. Ở mức độ này người bệnh thường có biểu hiện nóng rát sau xương ức và ợ chua là chủ yếu.

viêm thực quản trào ngược độ B:

viêm thực quản trào ngược độ C:

Mức độ viêm thực quản lúc này đã trở nên nặng hơn, còn gọi là barrett thực quản. Barret thực quản là tình trạng màu sắc và thành phần của tế bào lót ở vùng thấp thực quản thay đổi. Những vết trợt ở tình trạng B đã tập trung hơn, đồng thời niêm mạc vùng tổn thương đã bị quá sản hoặc loạn sản mô ở thực quản. Nguyên do chính là việc tiếp xúc thường xuyên với dịch dạ dày của cơn trào ngược. Đây là giai đoạn của tiền ung thư thực quản. Người bệnh sẽ có những triệu chứng: thường xuyên ợ nóng, khó nuốt, đau tức ngực, phân đen, nôn ra máu.. Nam giới bị barrett thực quảnnhiều hơn nữ giới.

viêm thực quản trào ngược độ D:

Barrett thực quản chuyển sản thành những vết sẹo, viêm loét sâu, mức độ tổn thương rộng lớn chiếm tới >75% chu vi lòng thực quản, khả năng ung thư thực quản ở giai đoạn này rất cao. Khi bị sang mức độ D, người bệnh cần xét nghiệm ngay mô tế bào để xác định chính xác kết quả.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật