Đạo Sĩ Tản Mạn Kì

Billgate Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Truyện ma có thật được tác giả kể lại bằng hư cấu văn học và những chi tiết kinh dị rùng rợn! Đây là lần đầu tiên em tập tành viết truyện nên các thím vào đọc ong thì cứ thẳng thắn góp ý, phê bình em nhé.
Đạo Sĩ Tản Mạn Kì
Đạo Sĩ Tản Mạn Kì

Cần thiết thì chửi thẳng vào mặt em cũng được Để em biết cái ngu của mình mà sửa Em hứa là không són lâu đâu, ngày nào cũng có hết.

Chương 1
Ám ảnh mỗi khi về quê

Quê em ở Ninh Bình, một vùng quê được bao phủ bởi núi đá trùng điệp, người thì thưa mà đất thì rộng, rừng cây um tùm bốn phía. Đến tận bây giờ, những năm của thế kỉ 21 mà ở quê em vẫn còn diễn ra chuyện hổ vào làng vồ trâu, trăn gió nuốt trộm dê, bò.
Để trị hổ, trăn thì còn có súng đạn, bẫy, lưới,… nên người dân quê em cũng chẳng ngại gì lắm. Có người còn mừng vì chỉ mất vài con dê mà đổi lại được một con hổ hay một con trăn, bán rẻ cũng phải vài chục triệu. Nhưng dù có không sợ trời không sợ đất thì người dân quê cũng luôn mang trong mình nỗi sợ mơ hồ về một thứ không rõ ràng, đó là Ma. Sau đây em xin tổng hợp lại những chuyện em được nghe kể từ chính người thân của mình, và những câu chuyện em cóp nhặt được khi đi chơi ở những huyện khác trong tỉnh.

Chuyện thứ nhất: Ma chó
Đó là vào những năm 60, khi ông em vừa từ chiến trường Điện Biên Phủ trở về. Ông em kể lại rằng: Hôm đó, ông vừa hoàn thành xong một số việc giấy tờ, họp bàn với anh em trong đơn vị về việc tập kết để chuẩn bị vào Nam. Sau buổi họp thì đã xế chiều, anh em chào tạm biệt nhau rồi ai về quê người nấy, hẹn ngày 25 tháng Giêng, hai năm sau thì tất cả tập chung tại trụ sở của đơn vị. Nóng lòng muốn về nhà sau gần chục năm xa vợ xa con, ông em bắt ngay chuyến tàu cuối cùng của ngày hôm đó để về quê. Lúc ông xuống đến gha Ghềnh thì đã muộn lắm rồi, nhìn lên đồng hồ treo ở nhà ga thì bây giờ là 2 giờ sáng. Nhưng đang nóng lóng về nhà, lại thấy có sáng trăng nên ông quyết định đi xuyên đêm về nhà. Tính ông em vốn bạo gan, lại chẳng tin vào chuyện hồn ma bóng quế nên ông bỏ ngoài tai lời khuyên từ những người khách ở ga, khuyên ông nên ở lại đến sáng hãy về vì dạo này có lắm lời đồn về ma quỷ ở ngã ba vào thôn, ông cứ thế thẳng bước đi về, lòng chỉ mong về sớm được lúc nào hay lúc ấy. Đêm hôm đó, một mình ông đi trên con đường đất dài hơn 6 cây số từ ga Ghềnh về làng. Hai bên đường toàn là cây cối rậm rì, cách vài trăm mét mới có một vài nhà, thời đó lại chẳng mấy nhà có đèn điện, nên nhìn ngút tầm mắt chỉ thấy toàn cây là cây, thỉnh thoảng tiếng chim khắc ăn đêm lại kêu khé khé đến rợn người. Cơ mà ông em chẳng sợ, lại có sáng trăng nên cứ sải bước mà đi, vừa đi vừa nghĩ xem giờ này ở nhà đang làm gì. Đi được một lúc thì ông em bống thấy một con chó trắng tinh đi trước, cách ông một quãng ngắn, ông em thấy lạ liền bước nhanh về trước xem sao, vì ở quanh đây làm gì có mấy nhà mà có chó chạy ra đến tận đây, lại còn chó trắng tinh như chó nhà bọn theo Tây. Nhưng lạ là ông đi nhanh thì con chó cũng đi nhanh, ông đi chậm thì còn chó cũng đi chậm, lúc ông thử đứng lại thì con chó cũng đứng lại, mấy lần như vậy thì ông em nhận ra rằng cái thứ đi trước mình chẳng phải là chó mèo nhà nào cả. Ông em liền nhặt vài cục đá, đinh bất ngờ lao tới gần ném con chó xem nó làm sao, nghĩ sao làm vậy, ông em vơ bên vệ đường vài viên đá to bằng 2 nắm tay, ông ném liền ba phát: "Cục! Cục Cục…!" , tiếng đá chạm đất nghe đinh tai, nhưng ông em tự lại thấy lanh gáy vì từ nãy đến giờ cả ba phát ông em ném đều trúng lưng và đầu con chó, nhưng tại sao lại là ba tiếng đanh như vậy, mà con chó thì chẳng có phản ứng gì, vẫn lững thững đi trước ông. Ông em lúc này bắt đầu thấy ghê tay rồi, nhưng ông không biết sợ là gì nên lại cầm đá, lần này ông dồn sức ném thật mạnh, thì bống ùm một cái, con chó nhảy luôn xuống cái ao hoang bên đường rồi mất hút.Thấy chỉ ném vài viên đá mà đuổi được cái thứ kia nên ông em càng vững dạ, lại tiếp tục hướng thẳng đến làng. Đi thêm một lúc, ông em ước chừng chỉ còn vài cây là về đến nhà thì chợt ông em khựng người lại, đằng trước ông lại là con chó đó đang đi lững thững. Lúc này thì ông em không cảm thấy sợ nữa mà thấy cay lắm vì từ trước đến nay chưa ai dám chọc phá ông đến như thế cả. Ông khẽ rút từ trong ba lô ra con dao găm dài non một thước tây, hơi giấu vào sau lưng để thủ thế (vẫn là con dao này, con dao ông đã dùng để quần nhau với một con hổ khi còn trên Việt Bắc, đến giờ mặt ông em vẫn còn một vết sẹo, kết quả của cái tát với cuối cùng của con hổ, nhưng may sao ông em dùng dao gạt được từ đó ông em coi con dao này như vật hộ mệnh, mỗi khi có hiểm nguy thì ông đều sờ đến con dao đầu tiên).
Vừa thủ con dao, ông em vừa đi tiếp, nhưng lần này ông bước thận trọng hơn. Đi tiếp đến đầu cầu thì con chó không còn giữ khoảng cách với ông nữa, ông em đến gần nó hơn. Và lần này thì ông thực sự thấy lạnh toát ống lưng khi thấy con chó bống nhảy phốc lên trên thành cầu, từ từ đi bằng hai chân sang bên kia cầu, cái thành cầu chỉ rộng bằng phần ba quyển vở học sinh, vậy mà con chó đi không hề chao đảo. Giờ thì ông em bắt đầu thấy lạnh dần từ sống lưng lên gáy, ông vẫn tiến tiếp, mắt ông theo sát con chó, tay chỉ chực vung con dao găm ra tấn công. Con chó đi tiếp đến đầu cầu bên kia, rồi nó ngồi trên cái trụ cầu, quay đầu lại nhìn chăm chằm vào ông, cái mõm hơi há ra như đang cười.Giờ, khoảng cách giũa ông và nó chỉ còn khoảng vài mét. Ông em đứng im mất vài giây rồi bất ngờ đâm thẳng con dao về phía trước, vọt người đến chỗ con chó, ông chửi to: " ĐM mày! Để tao xem mày là ma cỏ gì mà dám trêu vào tao!" Bất chợt con chó ẳng một tiếng rồi nhảy ùm xuống sông không thấy bóng dáng đâu nữa. Lúc này ông em mới thở phào nhẹ nhõm, đoạn đường tiếp theo về làng, ông em vẫn chú ý đề phòng con chó kia nhưng tuyệt nhiên không thấy nó đâu nữa.

Chương 2
Nhà thầy học

Cách đây hơn hơn 70 năm, khi ấy ông em vẫn còn là một thầy khóa, mang trong mình ước mơ khoa bảng để làm rạng danh tổ tiên. Hồi đó chữ nho và thi cử kiểu cũ vẫn còn thịnh ở các làng quê, những người đồng niên với ông đều theo học một ông tú trong làng. Nhưng vì ban ngày ai cũng phải lo việc đồng áng, buôn bán nên đến tối lớp học mới bắt đầu. Lớp học của ông nằm trên một quả đồi thoải thoải, biệt lập với xóm làng xung quanh. Suốt 2 năm đầu mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, tối đến thì học, học xong buổi thì về, trò nào nhà xa thì ngủ lại nhà thầy, cho đến một hôm.
Đêm hôm đó, ông tú dạy xong thì phải sang làng bên chuẩn bị đám cưới cho con của một người bạn, trước khi đi, ông tú dặn học trò ở lại ngủ thì cẩn thận, lại cắt cử thêm mấy trò lớn tuổi nhất ở lại để trông nom bọn trò ấu học. Ông em tuy không nằm trong nhóm cắt cử ở lại nhưng nể lời bạn nên cũng ngủ lại vì chẳng mấy khi anh em có dịp hàn huyên, nhưng ông không thể nào ngờ nổi đêm nay lại là đêm khởi đầu của một chuỗi biến cố không chỉ với mình ông mà còn với cả cái làng nhỏ vốn bình yên này .

Thầy đi được một lúc thì mấy trò lớn liền bàn ngay chuyện phân chia chỗ sao cho hợ lý. Bàn đi bàn lại một hồi thì mấy anh em liền hò nhau trải chiếu ra hiên mà nằm vì trong nhà vừa chật vừa nóng, mà nằm ngoài thì anh em lại được nói chuyện dễ, thích thì thức đến sáng mà bàn luận thơ văn cũng được.Thế là anh trưởng tràng liền phân chố nằm, cứ lớn nhất thì nằm ngoài, nhỏ dần, nhỏ dần thì chia mà nằm vào trong, để dãy ngoài cho các huynh lớn bàn truyện Nhưng bàn thơ, bình văn thì chẳng thấy đâu, chỉ thấy các anh bày đủ trò ra mà mà chọc phá nhau. Anh trưởng tràng được thể, chỉ tay ra vườn đùa: "Bọn mông học với ấu học nhìn cho kĩ nhớ! Thấy gì kia không? "Ngài" về đấy, đứa nào cười, đứa nào khóc, ngài ném cho u đầu" .Anh trưởng tràng vừa dứt lời thì "Xoảng!", một viên ngói ném từ trong vườn ra, trúng sát ngay bên cạnh chỗ anh trưởng tràng nằm. Mấy anh em thấy thế thì cười rộ lên, bảo nhau:" Thiêng thế nhỉ! Vừa có đứa cười xong, giờ lại sắp có đứa khóc đấy" Lúc này thì anh cáu lắm, chửi đổng: " Mẹ bọn trẻ con dưới xóm lên đây phá ! Ông bắt được thì ông vặn cổ chúng mày" Mấy anh em vừa cười xong giờ cũng bắt đầu thấy tức cho huynh lớn nên cũng hùa nhau vào chửi. Nhưng tiếng chửi vừa dứt thì liền 5-6 viên ngói ném từ trong vườn ra. Mọi người thấy thế thì đồng loạt đưa tay lên che đầu, vậy mà cả 5-6 viên ném ra đều không ai làm sao cả, trong khi toàn ném trúng ngay sát bên người, chỉ cần lệch thêm li nữa thì tan người.Bỗng một anh nhanh tay nhặt mảnh ngói còn nguyên, định ném trả. Nhưng chưa kịp ném thì anh này đã líu lưỡi lại, mặt cắt không còn giọt máu. Cả đám thấy vậy liền nhìn theo hướng anh kia, và hơn chục người cùng im bặt. Thứ mà anh kia nhìn thấy là một cái bóng nhỏ như đứa trẻ 5 tuổi, đỏ lừ như than hồng đang nhảy loi choi khắp vườn. Cái bóng đó bống đi chậm lại rồi từ từ tiến về vườn sau, nhưng càng đi thì cái bóng càng đen lại và to dần, người cứ ngày một tròn dần như cái ụ mối. "Nó" cứ thế đi dần ra vườn sau rồi mất, lúc gần đi đến cái hàng rào thì nó đã to như đống rơm rồi. Mấy anh hàng ngày gan lì cóc tía mà giờ đều sợ xanh mặt, im như phỗng. Sau đấy thì chẳng ai nói với ai câu nào, chỉ nhìn nhau rồi thức đến sáng, bọn ấu học với mộng học vẫn ngủ say chẳng biết gì. Sáng hôm sau, ông tú về, đem theo bao nhiêu là quà bánh, xôi thịt,… nhưng ông thấy lạ là sao mọi hôm thì bọn này như lũ chết đói mà hôm nay lại chê xôi thịt ê hề. Ông gặng hỏi thì anh trưởng tràng khẽ rỉ tai ông, ông liền bảo bon trò nhỏ tuổi lấy phần oản, xôi rồi ra ngoài chơi, tự chia nhau, Lúc này anh trưởng tràng mới từ từ thuật lại chuyện đêm qua cho ông tú. Ông tú nghe xong thì cười lớn, bảo: "Mấy anh đúng là thần hồn nát thần tính, là người đọc sách thánh hiền thì quỷ ma nào dám trêu ghẹo mấy anh, người ta bảo ma quỷ tự đâu ra, ma quỷ tự lòng ta là có lí của nó! Tâm mình không đục thì sợ cái gì nào? Học nhồi học nhét đến mụ cả đầu!". Mọi người thấy thầy nói phải nên cũng nguôi đi ít nhiều, có người lại tự trách mình làm gì để tâm bất chính nên mới sinh ra vậy. Mấy bữa sau, mọi chuyện lại diễn ra bình thường như trước, anh em vẫn ngủ lại nhà thầy như cũ mà chẳng sợ hãi gì cả. Nhưng mãi đến hơn 3 tháng sau mới có chuyện xảy ra, và lần này thì không còn đơn giản như chuyện mấy đứa học trò bị ma trêu nữa.....

Chương 3
Thầy phù thủy

Vào những năm trước khi chiến tranh Biên giới xảy ra, ở quê em ngoài những nghề như làm nông, thủ công, buôn bán thì còn có một nghề rất đặc biệt, mà không phải ai cũng làm được. Đó là nghề thầy phù thủy, hay như người tàu thường gọi đó là "bọn thuật sĩ giang hồ".
Các cụ kể lại rằng, người làm thầy phù thủy thì phải là nam, phải có dòng máu phù thủy trong người( nghĩa là trong dòng họ phải có người đã từng làm nghề này và đạt đến trình độ "tốt nghiệp"). Những người làm nghề này thì phải tuân theo lời thệ từ lúc bái sư đến cuối đời, nếu ai sai phạm thì sẽ bị trời phạt. Và đã từng có không ít người hóa điên, tán gia bại sản hay thậm chí là cả nhà chết sạch chỉ vì họ đã không tuân thủ theo lời thệ.Nhưng nội dung bản thệ đó thì những người ngoài nghề chẳng ai biết và cũng không hiểu nó có gì đặc biệt mà lại thay đổi được số vận của cả một con người như vậy.

Thầy phù thủy cũng chia theo cấp bậc, dòng phái y như người ta học đại học bây giờ, có thầy giỏi thầy thường, có dòng chính tông, có dòng chi phái, dòng mạnh, dòng yếu,….nhưng được người đời biết đến nhiều nhất là hai dòng Nam tông và Bắc tông. Dòng Nam tông là dòng bùa chú được sáng tạo nên bởi những người ở phía nam Trung Quốc như vung Vân Nam, Tứ Xuyên, Miêu Cương,… và những nước phương Nam như nước ta hay Miến Điện, Xiêm,... Loại bùa chú Nam tông này dễ làm dễ sử dụng nhưng lại độc ác vô cùng, người học dòng này có thể sử dụng bùa chú để làm mọi chuyện, từ việc sai ma quỷ tát nước, đắp bờ đến việc vẽ một lá bùa để làm cho nhà hàng xóm bệnh tật liền vài ba đời đều được. Chỉ có điều là dòng bùa chú này sức mạnh không cao bằng Bắc tông, lại độc địa khó lường, chỉ gieo vạ cho con cháu đời sau nên không mấy người học. Còn dòng bùa chú Bắc tông là dòng bùa chú được coi là "chính thống" nhất, nhưng cũng khó sử dụng nhất, đây chính là loại bùa chú mà em muốn nói đến trong chuyện. Để học bùa chú Bắc tông rất khó, ngoài việc có dòng máu ra còn cần phải có trí thông minh, lính hội tốt, chịu nhiều gian nan khổ cực mới được sư phụ chấm sắc cho xuất sư, được tự do hành nghề phù thủy. Bùa chú Bắc tông nhìn trông y như loại bùa màu vàng mà nhà các bác hay dán trên cửa ý, chỉ khác cái là bùa Bắc tông thì nhìn rất đẹp nhưng chả ai hiểu nó viết cái gì. Nhưng để vẽ được một tờ bùa loại này thì phải lập đàn cúng tế, chọn ngày chọn giờ, bày trận bát quái ngũ hành, lục đinh lục giáp rất cầu kì, phức tạp.
Giải thích sơ qua về bùa chú chút để lòe các thím, bây giờ thì em xin phép quay trở lại câu chuyện ở quê em. Bắt đầu từ những năm 30- 45, người Tàu sang bên ta định cư rất đông, họ đem theo cả nền văn hóa, phong tục của họ đến đất nước mới. Và tất nhiên, văn hóa bùa phép cũng theo người Tàu về quê em. Sau cái đợt người dân Trung Quốc ào ạt sang Việt Nam lánh nạn chiến tranh Quốc- Cộng thì làng em có rất nhiều người xin theo học mấy ông thầy Tàu phép bắt ma. Nhưng người thành tài thì ít mà người chán nản bỏ dở thì nhiều. Trải qua hơn chục năm, những ông thầy ở quê tưởng như phải bỏ nghề vì không có "đất dụng võ", ở cái làng quê yên bình này thì kiếm đâu ra ma quỷ, họa chăng có thì toàn là ma do mấy bà hàng rau hang thịt ở chợ tự thêu dệt nên.
Nhưng đến tháng 3 năm 1946 thì mọi chuyện ở quê em bắt đầu biến động. Khởi đầu là những làng xung quanh làng em, bắt đầu từ làng ngoại. Cứ đêm đến là đường làng lại có tiếng rục rịch rồi ào ào như có cả đoàn quân đi qua vậy, lắm nhà còn nghe thấy cả tiếng cây đổ ầm ầm, từ lúc nửa đêm đến đến gà gáy, không lúc nào ngớt. Người dân quê ban đầu tưởng là trộm cướp vào làng nên hò nhau đánh trống khua chiêng đổ xô ra đường. Nhưng ra đến ngoài thì lại lặng ngắt như tờ, cây cối vân ý nguyên. Vài lần như vậy, người làng biết có chuyện chẳng lành nên ban ngày thì các cụ bô lão ngồi trong đình làng họp bàn cách giải quyết, cứ đến sẩm tối là lùa gà chó vào chuồng, cài then khóa cổng không lai vãng ra ngoài. Trước đây thì nhà này qua nhà kia ngồi chơi chè nước đến đêm mới về, trẻ con thì tụ tập chơi đuổi bắt trên đường làng,… náo nhiệt đông vui vô cùng. Còn giờ thì cả làng quê im lìm như ngôi làng chết, bọn chó trong làng thì cứ đến tối là cụp đuôi chui vào trong gầm giường ư ử cả đêm, trẻ con cũng sợ đến mức không dám khóc. Nhưng nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói, chỉ có điều là 2 tháng sau thì gà vịt trong làng cứ mất dần, mỗi đêm lại mất vài con, có nhà còn bị mất cả con trâu, mà sáng hôm sau ra xem chuồng gà chuồng trâu thì chẳng có dấu vết gì, vẫn cửa khóa, chằng xích y như đêm hôm trước. Dân làng đó nghi là có trộm nên đổ xô đi lùng, đến một hôm thì có người báo là thấy có dấu máu đi vào trong núi. Thế là kẻ cuốc người gậy kéo vào trong núi xem đứa nào mà táo tợn đến thế. Nhưng đi vào đến quả núi phía trong thì cả làng mấy trăm người cùng đứng sững lại vì trước mặt họ là một đống xác gà vịt, trâu bò đang phân hủy, xác chất cao như núi, hôi thối nồng nặc. Thế là chẳng ai bảo ai, cắm đầu cắm cổ chạy về làng. Về đến sân đình làng thì mọi người mới bắt đầu xì xào bàn tán xem thứ gì mà lại gây ra chuyện như vậy. Người thì bảo tại ma quỷ, kẻ thì đổ tại làng có đứa ăn ở thất đức nên thánh thần giáng tội cả làng, bây giờ mới chỉ là trâu bò, sợ sau này đến cả người cũng chết.
Đến một tuần sau thì chuyện không còn ở trong phạm vi làng ngoại nữa, đến cả làng Đông, làng Nam, làng Bắc đều có trâu bò gà vịt chêt hàng loạt. Lúc này thì mọi người mới hoảng loạng lên, đi khắp nơi mời thầy này cô nọ về cũng bái trấn yểm, hao tốn bao nhiêu tiền của mà mèo vẫn hoàn mèo. Nghe tin bên làng em có mấy ông học thành tài phép của người Tàu nhưng mấy ông lại chẳng có tiếng tăm gì nên người các làng kia cũng nghi ngại, không mời từ đầu. Còn nước còn tát nên họ cử ngay mấy cụ bô lão trong làng sang bên làng em xin mấy ông kia cứu giúp, hứa sẽ hậu tạ đầy đủ. Mấy ông thầy già nhiều tuổi thì tỏ vẻ ái ngại nên khéo léo từ chôi, còn 2 ông thầy trẻ mới học xong thì hăng hái đi ngay, mừng như bắt được vàng vì lần đầu tiên được thử tài học của mình. Nhưng sau khi đi xem qua địa thế các làng kia và vào tận trong quả núi có đống xác trâu bò xem tình hình thì 2 ông này mới thấy sợ. Nhưng lỡ nhận lời rồi ma không giúp thì lại trái với lời thệ lúc bái sư nên hai ông đành phải làm. Ba ngày sau, hai ông cũng dân làng lập đàn từ lúc sáng sớm. Bày ra đủ thứ trận đồ, cờ phướn, mỗi ông mặc một đạo bào cánh hạc, một trắng một đen, tay cầm kiếm gỗ, vừa bắt quyết vừa lầm nhẩm đọc chú pháp. Sau khi cúng tế xong thì một thời gian dài không thấy mấy làng kia bị chết gia súc gia cầm gì nữa, tiếng động ban đêm cũng hết, cuộc sống lại trở về bình thường. Nhưng bên làng em thì bắt đầu có biến…..

Sau cái đợt hai ông thầy kia đi giúp lang bên cạnh trừ tà thì mấy ông thầy làng em bắt đầu nổi tiếng, người ở nơi khác kéo đến rất đông. Nhà thì xin giải hạn, nhà thì xin xem chu‌yện tìn‌h duyên, nhà thì nhờ tìm một tổ bị mất,…. Nhưng chủ yếu là hai ông thầy kia nhận, còn những ông khác thì đều tìm cách từ chối, rất ít người xin được. Chẳng mấy chốc mà hai ông thầy kia giàu lên trông thấy, chỉ sau có 2 tháng mà nhà mỗi ông dựng lên một cái điện to bằng cả chục gian nhà thường. Dân làng xì xào bàn tán không hiểu sao chỉ với một tháng ngắn ngủi mà hai lão lại xây nhanh đến thế, có lắm tiền thì thợ cũng chỉ làm có giới hạn thôi chứ sao lại nhanh như vậy được, có người còn bảo là do hai lão chờ đến khi đêm xuống rồi sai âm binh xây hộ.
Đang yên bình như vậy, nhà hai lão giàu thì càng ngày giàu lên, người làng em cũng được hưởng sái vì tiền bán vàng hương, đồ ăn thức uống cho khách thập phương, và đặc biệt là bọn trẻ con thì lại xôi oản ăn không hết, bánh trái ê hề. Thế rồi đùng một cái, hai lão tre‌o c‌ổ tự tự ở cây gạo cuối làng, nhà cửa cháy rụi không còn một tý gì. Sáng hôm hai lão tre‌o c‌ổ, mấy ông thầy pháp còn lại trong làng đều cùng vơi người làng đỡ hai cái xác ấy xuống rồi làm lễ siêu độ. Đang làm lễ thì tự nhiên bát hương bốc cháy đùng đùng, lửa xanh lè như ma trơi, bài vị, nhang đèn cúng cho hai lão kia đều đổ dúi dụi. Sáu ông thầy còn lại vội bảo mọi người ổn định, rồi mỗi ông bắt quyết một kiểu, đứng theo phương vị lục đạo mà niệm chú. Mọi người thấy kì dị, đang bàn tán nhau thì bỗng nhiên, mây dông vần vũ, gió thổi cát bụi mù mịt, cả làng hoảng lên, thi nhau lạy xin ông trời đừng giáng họa. Bất ngờ, một tia sét đánh thẳng xuống hai cái quan tài, quan tài bốc cháy phừng phừng, xương cốt bên trong cũng cháy theo.Người làng liền lao vào lấy cành cây, nước, cát định dập lửa nhưng mấy ông thầy kia cản lại, bảo hắt nước vào bây giờ là hỏng hết, thôi thì trời tính sao mình theo vậy là hơn. Một lúc sau thì lửa tắt, nhưng không hiểu cháy kiểu gì mà không còn phân biệt được đâu là tro cốt đâu là tro than. Dân làng ngẫm lại hai lão này trước nay chưa từng làm gì ác, tuy lúc giàu lên có hách dịch với bà con lối xóm, cớ sao lại nên nông nỗi này. Lúc này ông T, người cao tuổi nhất trong sáu thầy bước ra nói:
- Hai ông này trước đây giúp người mấy làng nọ trừ ma quỷ, nhưng lại không biết lượng sức mình, động vào cả ma quỷ chết trận từ đời Trần, Hồ đến bây giờ, nên bị chúng nó bào thù. Nhưng đấy mới chỉ là một tội, còn tội nữa là dùng nghề phù thủy để đổi lấy giàu sang, buôn thần bán thánh đổi lấy tiền tài, danh vọng, phạm vào lời thệ lúc bái sư nên giờ bị trời phạt chết không toàn thây, chẳng được mồ yên mả đẹp!
Sau vụ đó, tưởng mọi chuyện chẳng có gì nữa, người dân quê lại trở về với công việc đồng áng, buôn bán như cũ, khách đến làng em cũng ít dần. Thế rồi, vào tháng 7, năm năm sau thì mọi chuyện mới thức sự bắt đầu. Đầu tiên là vụ ông em và mấy người bạn học thấy ma ở nhà ông tú, chuyện chỉ đơn giản có vậy nên cũng chẳng ai chú tâm lắm.Bẵng đi một thời gian tưởng không có gì thì bất ngờ, vào đúng ngày mùng sáu tháng tư năm sau, tự nhiên gà chó trong làng chết sạch, không còn lấy một con, người làng xót của, khóc lên khóc xuống. TRí thức trong làng thì nghĩ là dịch bệnh nên gọi bác sĩ người Liên Xô trên tỉnh về xem, nhưng không tìm ra được bệnh gì. Thế rồi ,mùng sáu tháng sau, ông H., nhà bán rượu ở cuối làng đang khỏe mạnh bình thường, ngồi nhậu với mấy anh em thì tự nhiên cười khanh khách, mắt trắng dã rồi lăn ra chết. Người làng kinh lắm, nhưng cho là trúng gió nên không để tâm gì nhiều thì mùng sáu tháng tiếp theo, rồi mười sáu, hai sáu trong tháng. Cứ đến ngày đó là tự nhiên trong làng lại có người chết bất đắc kì tử, mà toàn chết vào lúc giữ trưa với lúc nửa đêm. Giờ thì dân làng hoảng loạn thực sự, đến ngay cả nhà ông B, một trong sáu ông thầy trong làng cũng có người chết. Cả sáu ông cùng bắt tay vào lập đàn, quyết tìm cách giải hạn cho làng. Kén ngày mùng một tháng sau, người làng chuẩn bị từ trước, đắp đất lập một cài đàn cao 2 mét, rộng chừng năm mươi mét vuông. Sáu ông bảo dân làng về lấy máu chó đen vẩy trước cửa nhà rồi đàn bà con gái với trẻ con thì ở yên trong nhà, chỉ để sáu ông với đàn ông tuổi Dần, Thìn, Dậu, Tuất ở lại trông đàn. Đêm hôm đó không trăng, đàn ông đốt đuốc đứng theo đúng vị trí mà các thầy phân công, không được nói chuyện, cười đùa, không được ăn mặn trong ngày. Cái đàn tế được bày thêm đủ loại trận đồ, phướn xanh phướn đỏ, lục đinh lục giáp, tinh đồ, binh khí, nhìn rất oai nghiêm, bí hiểm. Đến đúng 10 giờ tối, cả sau ông thầy cùng lên đàn một lượt, ông T là người uyên thâm, giỏi phép nhất nên đứng làm chủ tế, năm ông còn lại chia nhau đứng theo ngũ hành, ông nào ông nầy đều mặc đạo bào tía, một tay cầm kiếm gỗ đào, một tay bắt quyết chỉ thẳng vào người ông T. Khi cả sáu ông bắt đầu làm phép thì trời dần dần nổi gió, từ trong núi Chà Ma, tiếng khóc, tiếng cười khe khé cứ ngày một đến gần, người gác đàn lắm anh sợ muốn vỡ mật. Một lúc sau thì gió cứ như bị hút vào cái chum đất đặt trên đàn tế, đến khi gió gần ngưng thì tự nhiên ông B và ông D ngã lăn ra đất, cả đám đứng đó đều hoảng. Ông T vội hét to bảo tất cả đứng yên không rời vị trí, rồi ông lao ra, bịt miệng chum, lấy bùa dán đè lên miệng. Xong xuôi rồi ông vội vàng vứt cả kiếm, chạy lại chỗ ông B và ông D, tất cả đổ xô vào xem thì thấy hai người đã lịm đi, ông T và ông S mỗi đỡ lấy đầu hai ông, bấm vào nhân trung cho tỉnh lại. Vừa tỉnh lại thì hai ông trào cả máu mũi máu mồm ra, hai ông cố vớt vát mấy câu cuối, ý bảo dân làng thay hai ông lo cho mấy đứa con, bảo chúng nó sau này đừng theo nghề bố, còn xác hai ông thì giao cho ông T đem đi yểm. Lúc này thì ông S là anh ruột ông B, thấy em chết thì khóc rống lên rồi cười hềnh hệch như điên như dại rồi chạy thẳng ra bờ sông, mấy anh thanh niên khỏe mạnh đuổi theo giũ ông lại thì bị ông ưỡn người, lắc cho vài cài, 4 anh thanh niên bị bắn ra xa nằm ngất lịm, còn 2 anh lồm cồm bò dậy đuổi theo ông thì không tài nào kịp, ông S nhảy ùm xuống sông rồi mất tăm, không thấy gì, 2 anh vội nhảy xuống vớt thì chẳng thấy đâu, liền lao lên bờ hô làng cho thêm người ra cứu.
Nhưng vừa lên bờ thì cả hai thấy sống lưng lạnh toát, hai người từ từ nhìn ra sau, ngay lập tức cả hai cung hét lên kinh hoàng. Cái mà họ đang thấy là ông S đang đứng trên một tấm vãn chỉ rộng bằng tờ giấy bản mà ông không chìm, còn cái người ông thì xoay tít trên cái ván y như chong chóng, ông S tự nhiên cười the thé, từ xa mà tiếng vang ý như ngay bên cạnh. Dân làng bấy giờ đổ xô ra thì thấy cảnh tượng kì dị này, mặt ai nấy cắt không còn giọt máu , vội vàng cho hơn chục người bơi giỏi rồi cuộc dây vào người, bơi ra cứu ông S. Cứu được ông S vào bờ rồi thì ống lại giãy đành đành như cá, mắt trắng dã, miệng hét lanh lảnh: "Thả tao ra! Thả tao ra!" rồi bất chợt, mắt ông lại đỏ rực lên như hòn lửa, giọng ồm ồm, gầm ghè: "Chúng mày lấy hai cái xác cho kia để yểm được bây giờ chứ yểm được mãi hả! Để tao cho chúng mày yểm nhớ? Yểm này! Yểm này! Yểm này!" Cứ mỗi tiếng "yểm này" người ông S lại giật lên, máu mũi máu mồm trào ra như hai ông kia, ai vào ghìm lại cũng không được. Một lúc sau thì ông T và ông C chạy đến, hai ông vội bắt quyết, ấn lên trán ông S. Nhưng tay vừa chạm vào ông S thì cả hai ông bắn ra như chạm phải điện, ngất ngay tại chỗ. Mọi người vội võng ông T và ông C về đình làng rồi xức dầu, xoa bóp cho hai ông tỉnh lại. Vài tiếng sau thì hai ông tỉnh lại, ông này nhìn ông kia rồi thở dài thườn thượt, ông C lẩm bẩm:" Một đêm mà mất ba người! Ba người! Ba người!" Tất cả xúm vào hỏi hai ông chuyện gì đã xảy ra. Ông T bảo:
-Hôm nay bọn tôi tính nhốt hết oán hồn, ma quỷ lại rồi phong kín không cho gây họa đến đời sau. Nhưng bất ngờ ông B và ông D lại bị vậy nên để xổng mất bốn cái oán linh! Hai ông chắc thấy có lỗi lắm nên bảo để th‌i hà‌i lại cho tôi đem đi trấn yểm cho làng. Nhưng mà chỉ yểm được trong vòng 25 năm thôi vì mấy cái oán linh này mạnh lắm, còn thành hoàng làng thì đang chịu phạt nên không làm gì được chúng nó. Tôi đang tính là trong 25 năm đó làng mình sẽ đi tìm một người đủ giỏi để trấn áp nó. Còn số tôi già yếu sống nay chết mai, không biết sao mà lần!- Nói đoạn, ông T lại thở dài sườn sượt,ông C nhìn ông cũng thấy buồn.
Người làng nghe vậy thì dựng cả tóc gáy, nhưng vẫn yên tâm phần nào vì còn được 25 năm không bị quấy phá. Có gì thì 25 năm này vẫn còn nhiều thời gian để tìm thầy này thầy kia.
Nhưng thực sự thì 25 năm đó không hề yên ổn như mọi người mong đợi, vẫn tiếp tục có những đợt sóng ngầm

Chương 4
Chân nhân bất lộ tướng

Như đã nói trong chuyện trước, làng em có một thời hạn là 25 năm không bị mấy cái oán linh kia phá. Nhưng trong ông T dù giỏi cũng không chỉ đủ sức trấn yểm mấy cái oán linh bị xổng mất kia thôi, hơn nữa thành hoàng làng lại đang chịu phạt nên bây giờ, cửa âm của làng em gần như bỏ trống. Nói là gần như vì đã có hồn của hai ông B và D giữ cho làng khỏi mấy cái ác linh rồi, nhưng còn những loại ma quỷ khác vẫn có thể vào được mà không bị cản bởi hai ông.
Cũng may sao là cụ tổ họ nhà em lại có tướng Bạch Hổ Trấn Sơn, sánh ngang với Trung Đẳng thần, tuy vậy thì cụ cũng chỉ có quyền hạn bảo vệ cho con cháu trong nhà, còn người ngoài thì thuộc quyền của thành hoàng, thổ địa, vậy nên trong 25 năm đó, họ nhà em vẫn yên ổn làm ăn, còn người làng thì….

Kể sơ qua về cụ tổ họ nhà em chút: Cụ sống vào thời phù Lê diệt Mạc, là tướng tài của vua Lê, lại có công cùng hai đời chúa Trịnh đánh đuổi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Sau khi hết nạn can qua, vua Lê ghi công cụ em vào hàng công thần, lại gả công chúa cho cụ, phong cụ làm ph‌ò mã. Cụ tổ vì cảm cái ơn của vua nên dốc lòng thờ vua nên lúc nào cụ nhà em lúc nào cũng chỉ mong diệt được họ Trịnh, đem lại ngôi chính thiên cho nhà Lê. Cũng vì lẽ đó mà không ít lần cụ bị gia hại, nhưng đều may mắn thoát được. Qua bao tranh đấu chốn quan trường hiểm ác mà vẫn không xoay vần được thời cục, ngán ngẩm chuyện thế sự, quan quyền nên cụ cáo quan về ở ẩn, chỉ lo vui thú điền viên. Sau khi cụ mất, nhờ cụ vốn có phúc tướng, lại có mệnh là tướng tinh nên mất rồi lại được phong thần, đạo lại cao hơn cả thổ địa, thành hoàng, đứng ngang với hàng Trung Đẳng Thần.
Nhờ có uy của tổ mà sau bao nhiêu năm, họ nhà em lúc nào thế cũng vững như thành đồng, chưa hề có chuyện quỷ mị xảy ra.
-------------------------------------------
Khoe với các thím chút về dòng dõi quý tộc của mình vậy là đủ, giờ thì sau khi trà nước chán chê, em xin bắt đầu vào câu chuyện chính.
Trở lại với cái kỳ hạn nọ, đã 20 năm trôi qua mà chưa có chuyện gì to tát lắm xảy ra, người nhìn thấy ma quỷ. Bị ma trêu thì nhiều lắm, cơ mà chẳng có gì hại đến người. Qua 20 năm yên ổn, giờ thì ông T đã mất được vài năm, những thầy phù thủy cũng thời cũng đều đã khuất núi lâu. Giờ thì ở quê em lại có một lớp thầy pháp mới, tuy không cao tay bằng lớp trước nhưng cũng được xếp vào hàng giỏi, lớp thầy này gồm có 3 ông là thầy L, thầy A và thầy N. Ba ông này thì có hai ông A và N là tuân thủ rất nghiêm lời thệ, ai bảo giúp gì thì xét khả năng mình đủ không rồi mới nhận lời, còn gia chủ thí cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, nhà nào nghèo thì không lấy tiền mà còn giúp thêm gạo, muối. Duy chỉ có ông thầy L là tàn tệ nhất trong số những thầy pháp từng ở làng em. Ông này ham tiền hơn mạng sống, ai đến xin giai hạn hay xem nhà cũng đều phải có chút gì đó gọi là quà gặp mặt. Lao này lại còn phạm vào rất nhiều điều đại kị như nữ sắc, một mình ông mà lấy tới 5 vợ, lại còn phạm vào tội bất hiếu, rõ ràng nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng toàn để mẹ già ăn gạo xấu, rau lạt dưới bếp,còn nhà mình thì ăn thịt, chả, tôm, cá, toàn là cao lương mĩ vị. Người làng ai cũng ghét lão này, lắm người bảo, lão đã giẫm vào vết xe đổ của người trước thì chẳng mấy mà đi, có khi còn nặng hơn. Tuy độc ác như vậy nhưng tài phép của lão lại cao hơn hẳn hai ông thầy kia một bực. Đó là do lão luyện chỉ thuần bùa chú Nam tông, lại luyện nhiều loại như bùa Xiêm La, bùa Vân Nam, bùa Chà Và,…
Còn hai ông N và A thì vốn dĩ tư chất đã không được như các thầy lớp trước, lại không gặp được sư phụ giỏi, chủ yếu là dựa vào cần cù, chăm chỉ mà luyện thành tài vậy. Thế rồi chuyện gì đến cũng phải đến, một đêm nọ, lão L vừa đi cúng đám pháp sự suốt hai ngày ở làng bên về thì bị một tia sét đánh trúng ngay sau lưng, chỉ cách lão có vài bước. Lão kinh hoàng chạy một mạch về nhà, vừa vào đến sảnh lớn thì lão rú lên kinh hãi. Người làng thấy có động liền đổ xô đến xem, đập vào mắt họ là một cảnh tượng rợn người: Trên xà ngang cả năm bà vợ tuổi mới đôi mươi của lão đều tre‌o c‌ổ chết, tóc người nào người nấy đều đã bạc trắng.Như một con thú điên, lão L vùng lên, lao vào nhà trong, vừa chạy vừa gào: Ối con ới! Con ới! Hai con đâu rồi ra đây con ới!" Một vài người chạy theo lão, tìm khắp nhà không thấy hai đứa bé đâu, chỉ thấy mỗi bà cụ mẹ lão L đã chết từ bao giờ, xác đã lạnh. Tìm khắp nơi không thấy đâu, mà nhà thì rộng đến hơn mẫu, tòa ngang dãy dọc nhiều vô số, một người thấy khát nước liền mở vại nước sát ủ ra định uống vài gáo cho đỡ, nhưng vừa mở nắp ra thì người này hét lên kinh hãi rồi ngất lịm. Mấy người đứng gần liền đổ xô đến cứu chữa, có vài người nhòm vào chum nước xem thì chao ôi! Hai đứa bé đã chết ngạt từ bao giờ rồi, xác đã trương phềnh lên. Lão L nhìn thấy nhà cửa vợ con như vậy thì ngồi phịch xuống cái ghế bố ở giữa sảnh, mắt nhìn vô hồn về phía trước, người làng ai cũng ghét lão nhưng mà thấy thế thì cũng ai ngại nhìn. Lúc này thì ông N và ông A bước ra, họ vì cái nghĩa đồng nghề, hơn nữa không thể thấy chết mà không cứu nên hết ông này đến ông kia bắt quyết rồi điểm vào trán và gáy lão L. Nhưng không hiểu so người lão cứ như cái bị bông, chẳng có phản ứng gì, ông A liền lấy trong bọc áo ra một miếng hương vào vàng, đốt lên rồi hươ hươ trước mũi xem lão có phản ứng lại không, lão L vẫn ngồi thẫn thờ, bất động. Hai ông thầy kia nhìn nhau rồi lại nhìn dân làng, ông N chỉ nói đúng hai câu: " Bất hiếu với mẹ, vi phạm lời thệ. Trời phạt quỷ hành, một xác nhiều hồn, sống không bằng chết!" Xong rồi hai ông chẳng nói chẳng rằng, cứ thế đội mưa đi về. Đêm hôm sau, cả vùng quê lại náo động lên vì ánh lửa phát ra từ phía nhà lão L, lúc dân làng chạy đến thì thấy lão L tay cầm bó đuốc đang châm lửa đốt nhà, lão cứ vừa đốt vừa cười ha há, thỉnh thoảng lại rú lên một tràng dài, trai tráng đổ xô vào cứu hỏa mà không tài nào dập được, có cảm giác như càng hắt nước vào thì lửa càng cháy to hơn. Thế là đêm đó tất cả đều không ngủ, đứng nhìn tòa nhà rộng hơn mẫu đang cháy rừng rực trong đêm, lửa sáng cả một góc trời. Đến trưa hôm sau thì lửa tắt, mọi người vào tìm thì chẳng thấy lão L chạy đâu, có người nói lão chạy ra ngoài từ đêm hôm qua, chỉ bật một cái mà qua luôn bức tường cao 3 mét, ai thấy cũng khiếp nên chẳng dám đuổi theo. Sáng sớm ba ngày sau, dân làng lại không tài nào ngủ được vì tiếng huyên náo phát ra từ cuối làng, mọi người tất tả mặc áo chạy ra, ai vừa đến cũng sợ đến xanh mặt. Lão L đang đứng trên một cành cây gạo, cái cây gạo mà trước đây hai lão thầy kia từng tre‌o c‌ổ. Lão L đứng trên đó, mái tóc của lão chỉ mới trải qua một đêm mà đã dài tới gót chân, bạc trắng như cước, tay lão vung vẩy cái liềm, vừa vung vừa hát í a, mồm thì lại cười ngoác đến mang tai, ai nhìn cũng khiếp. Dân làng liền kéo nhau đi lấy vải bạt để hứng, ngộ nhỡ lão có rơi xuống thì đỡ. Nhưng vừa quay lưng di thì có lão L gọi giật lại, giọng thé thé như xe vải: " Tao cấm! Tao cấm! Đứa nào dám hứng thằng này thì tao về tận nhà tao vặn ngược cổ từ trước ra sau! Hớ Hớ Hớ! Tao cấm! Tao cấm!". Vừa hét lão vừa nhảy tưng tưng trên cành cây, ngay lúc này thì ông N với ông A đã chạy về nhà lấy đồ xong, mỗi ông cầm một cây kiếm gỗ ném thẳng về phía cây gạo, nhưng hai cây kiếm gỗ vừa chạm vào gốc gạo thì tự nhiên rơi luôn xuống đất như hai khúc củi rồi lần lượt gãy đôi. Hai ông sợ xanh mắt mèo, nhìn nhau không nói được câu nào. Bỗng nhiên, một người mà không ai ngờ tới lại bước ra, đó là ông K. làm nghề cắt tóc ở xóm dưới.
Mọi người thấy ông cứ đủng đỉnh đi vào thì cản lại, bảo ông mà vào là nó vật chết ngay đấy, ông K chỉ cười không đáp, rồi lại tiến về gốc cây gạo. Mọi người ai cũng sợ nên không dám theo giữ chân, tất cả đứng từ đằng xa xem ông K đinh làm gì. Ông K cứ thế tiến ngày một gần tới gốc gạo, con quỷ- lúc này đnag nhập vào lão L thì cứ chỉ thẳng ông K mà mắng chửi, quát tháo. Ông nhẹ nhàng rút trong túi đồ ra một cây gậy vông dài bằng cánh tay, lúc này thì con quỷ đã bắt đầu im rồi, nó nhìn ông gờm gờm, mắt long sòng sọc. Thế rồi ông nhẹ bứt một sợi tóc trên đầu, quấn vào cây gậy rồi lầm rầm đọc gì đó. Giờ thì con quỷ mới lộ ra là nó đang sợ ông K, nó bắt đầu khóc lóc nỉ non, van vỉ đủ điều xin ông cho nó một con đường sống, tiếng khóc, van nài như vọng về từ một cõi xa thẳm, bao nhiêu người cũng đứng đó mà ai cũng thấy lạnh toát sống lưng. Ông K chẳng nói chẳng rằng, lại gần cây gạo, cầm gậy vông vụt liền bảy phát vào gốc, từ cây gạo, người ta nghe thấy tiếng hét thất thánh rồi tiếng la oai oái, mấy chỗ bị vụt trên gốc gạo cứ có một dòng nước đỏ ộc như máu, chảy ri rỉ ra. Vụt xong phát thứ bảy thì lão L trên cành đứng thẳng tưng người một cái, rồi đổ ra, rơi uỵch xuống đất, lão chết ngay tại chỗ. Sau đấy thì ông K lẳng lặng đi về, không nói thêm câu nào. Còn hai ông A và ông N mới đầu thì nhìn ông K một cách kinh ngạc , nhưng khi vừa thấy những việc ông làm và thấy hình săm trên cổ tay ông thì cả hai cùng kính cẩn đặt tay phải lên ngực, cúi người đứng nép sang một bên nhường đường cho ông K.
Vậy rốt cuộc thì ông K là ai mà lại cao tay ấn đến vậy, và hình săm trên tay ông có ý nghĩa gì mà khiến hai ông thầy kia phải kính cẩn như thế? Mọi chuyện chỉ có bố em và hai ông thầy kia biết, còn quá khứ của ông K thì đó là cả một câu chuyện dài về tình yêu, gia tộc, máu và nước mắt

Chương 5
Quá khứ của một người vô danh

Mải type mãi không để ý thời gian, em đi ăn cơm chút xíu xong lại nhào về ngay để kể tiếp cho các thím yêu vấu
Ông K vốn gốc là người Tàu, nhưng ông quê ở tỉnh nào bên đó thì cả làng chẳng ai biết, chỉ biết rằng ông đến làng từ năm 50, năm năm sau khi cái kì hạn kia bắt đầu. Là người nước khác nhưng ông K lại nói tiếng Việt rất sõi, lại còn nói được cả tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hà Lan, tiếng Anh nên dân làng ai cũng ngưỡng mộ ông vì cái vốn chữ. Tuy giỏi nhiều ngoại ngữ như vậy, lại rất nhiều lần có cán bộ về mời ông đi làm phiên dịch, lương tháng mấy trăm đồng bạc, là cả một giấc mơ xa vời với nhiều người thời bấy giờ. Nhưng ông khước từ tất cả, chỉ ở lại miền quê nghèo này làm nghề cắt tóc, đắp đổi qua ngày, khắp cả tỉnh, người mời ông đến cắt tóc rất đông, nhưng cắt tóc chỉ là cái phụ mà cái chính là họ muốn có một người uyên thâm, hiểu thời thế để nói chuyện, và những người mời ông đến nhà cắt tóc đều là những con người không " tầm thường".Dân quê ngày đó thấy ông ngày ngày vẫn cứ đạp cái xe đạp lọc cọc đi cắt tóc khắp nơi thay vì nhận làm việc bàn giấy, sống đủ đầy cả đời thì ai cũng cho là lạ, nhưng họ không thể hiểu tại sao lại thế, thôi thì cho rằng đó là cái tính kì dị của những người "học giỏi:", mà dân làng còn ngạc nhiên khi thấy một ông lão cắt tóc nghèo mà lúc nào nào cũng có thịt cá ăn luôn, lại toàn quen thân với mấy ông "tai to", có lúc thấy cả một đoàn xe của tướng Trung Quốc về tận làng để thỉnh an ông K, ông tướng người Trung Quốc nọ hách dịch vô cùng quát mắng lính lác xa xả. Nhưng khi gần đến nhà ông K thì ông tướng trẻ kia liền xuống xe, lội bộ gần cây số đất đỏ nhão nhoét chỉ để lên nhà ông K, đến lúc lên rồi thì ông K chỉ thẳng mắng mà mắng một tràng toàn tiếng tây tiếng tàu, ông kia sợ tái cả mắt, cứ quỳ rạp xuống đất bùn mà nghe ông K mắng, lúc ông K mắng xong thì phất tay ào vào thẳng nhà, khóa của lại. Chỉ còn mình ông tướng ở ngoài, ông tướng còn quỳ lạy thêm chín lạy nữa rồi vừa khóc vừa giật lùi mà đi về.Người làng ai trông thấy cũng khiếp, lại càng tò mò về lai lịch của ông K, nhiều người gặng hỏi nhưng ông đều tìm cách tránh nói đến, lâu dần thì dân làng biết ý ông không muốn gợi lại chuyện cũ nên cũng chẳng hỏi nữa.

Người biết về quá khứ của ông K chỉ có vài người, trong đó có bố em. Thuở nhỏ, bố em rất thích đọc sách cổ của Trung Quốc, cuốn nào có chữ quốc ngữ dịch ra thì đọc, còn cuốn nào viết bằng chữ Tàu thì đem về nhờ cụ dịch cho nghe. Bố em lại rất thích sang chơi bên nhà ông K vì nhà ông ở trên một quả đồi cao sau xóm, lại không nuôi trâu bò lợn gà gì nên rất sạch sẽ, tuyệt không có ruồi muỗi. Ông K thấy bố em nhỏ nhỏ mà lại thích đọc sách nên quý bố em lắm, mỗi lần đi lên tỉnh cắt tóc là lại tìm mua sách truyện của Nguyên Hồng về cho bố em đọc, ông lại còn rất hợp tính với bố, tính lại hiền lành dễ gần, toàn gọi bố em là chú, xưng anh, mặc dù ông còn già hơn ông nội em cả chục tuổi. Ông K và bố em thân với nhau như bạn vong niên vậy, có chuyện gì ấm ức bố em cũng kể cho ông K nghe, còn ông K thì rất cởi mở với bố em, nhờ vậy mà bố em cũng biết được nhiều điều về quá khứ của ông, một quá khứ chẳng hề bình lặng như con người hiền lành của ông. Một tối, bố em vừa đi câu về, bố câu được khá là nhiều cá, trong đó có một con chép đỏ , bố định đem con này lên cho ông K, còn mấy con khác thì quẳng vào bể nước để bà nội về làm mắm. Tối hôm đó, bố em xách con cá lên nhà ông K thì thấy ông đang bắc bếp nướng ngô, vừa thấy bố em lên thì ông vui hẳn, hồ hợi gọi bố em vào ngồi chung chờ ngô chín thì anh em gặm cho đã. Nhưng vừa thấy con cá chép bố em xách trên tay thì ông K xám mặt lại, ông vội giật ngay khỏi tay bố em rồi ném thẳng vào lò than, rồi lật đật chạy vào nhà trong, đem ra một đạo bùa màu vàng ném luôn vào lửa, kì dị làm sao khi con cá chép đỏ đã chết từ hồi chiều giờ lại nhảy lên tanh tách trong lò, phát ra nhưng tiếng kêu rít đến buốt óc. Ông K liền bịt tai bố em lại rồi hô một tràng toàn tiếng Miên, ngay lập tức con cá ngừng nhảy rồi cháy thành than ngay lập tức. Bố em chưa hiểu chuyện gì xảy ra liền hỏi ông K sao phải làm vậy, ông K chậm rãi trả lời :
-Con cá này là một trong năm cái oán linh xổng mất trong cái năm mà sau ông thầy làng chú làm phép đó. Bây giờ kì hạn đã hết, mà chú lại hợp vía với nó nên nó định hút hồn chú, nhưng mà cụ tổ nhà chú pháp lực cao cường, trấn giữ cho người trong họ rất nghiêm cẩn nên nó không làm gì được. Đêm nay lại là đêm tà nguyệt tụ hội, ma quỷ đắc lợi mà cụ tổ nhà chú lại đến kỳ vào chầu thánh đế nên nó mới chớp cơ hội, giả làm con chép đỏ kia để đêm nay dụ chú ra hồ rồi dìm chết đấy! Nhưng mà số chú còn dài nên trời xui đất khiến thế nào lại để chú mang nó lên chỗ tôi, giờ tôi diêtj được nó rồi nên không lo gì nữa, chỉ ngại mấy cái oán lình kia nó thoăt ẩn thoắt hiện, tôi không biết đâu mà lần nên chưa trừ được.
Bố em nghe xong thì sợ lắm, nhưng ông K trấn an bảo thế là xong rồi, từ rày họ nhà em không sao nữa thì bố em mới bớt sọ. Lúc bình tĩnh lại, bố em mới hỏi sao ông K lại biết phép phù thủy giỏi đến vậy. Sau một hồi trầm ngâm, ông K từ từ kể lại câu chuyện đời mình cho bố em nghe:
"….Trước đây, ông K vốn là dòng dõi danh gia thế phiệt ở bên Tàu, đời đời nối nhau làm nghề phù thủy, lại buôn bán cả ngọc quý, đồ gốm nên giàu có vô cùng.Tiền từ nghề phù thủy và buôn bán đem lại không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng họ nhà ông không giữ cho riêng mình, năm nào cũng đem tiền, gạo đi cứu tế dân lũ lụt ở Hoàng Hà, Trường Giang nên được lòng người dân lắm, đi đâu dân cũng bái vọng, lập bàn thờ sống. Thế rồi, cuối đời nhà Thanh, triều đình vu cho họ nhà ông tội dung yêu pháp mê hoặc dân chúng, có ý phản lại triều đình. Chỉ trong một đêm, già trẻ lớn bé hơn 3000 mạng trong họ nhà ông bị giết sạch, còn duy nhất chi họ nhà ông ở trên Thiểm Tây là thoát nạn. Vậy nên ngay từ khi sinh ra, ông K đã bị nhồi vào đầu ý chí phục thù, tìm con cháu của những quan lại ngày xưa đã vu khống họ nhà ông và con cháu dòng họ Ái Tân Giác La để giết hết không chừa ai. Và ông K đúng thực là niềm hi vọng của cả chi họ, từ bé ông đã bộc lộ trí thông minh siêu việt, cái gi cũng chỉ xem qua một lần là nhớ ngay. Chẳng mấy chốc mà ông K đã nổi tiếng tinh thông vô số loại bùa chú, ấn pháp, từ Nam tông Bắc tông đến cả bùa chú Mật tông, Tây Tạng, Mông Cổ, Cao Ly,…khi đó ông mới 19 tuổi. Nhưng thực sự thì ông lại không muốn trả thù chút nào vì ông cho rằng thù hận là thứ thế hệ trước gây ra, sao cứ phải để thế hệ sau như ông gánh chịu.
Chính vì lẽ đó mà ông bị cả họ hắt hủi, cha ông từ con, mẹ ông thì chỉ muốn tre‌o c‌ổ t‌ּự t‌ּử, ông bị trục xuất ra khỏi dòng họ. Thế là ông đi lang bạt khắp Trung Hoa từ năm 20 tuổi. Và ông đã gặp và yêu một người con gái, (một chuyên tình đẹp như trong phim phải không các thím), bất chấp gia đình cô Liên Liên kia ngăn cản, ông và cô vẫn làm đám cưới. Ngày ông làm dám cưới, người nhà bên kia thuê một thầy pháp về định làm phép cho ông sợ mà bỏ. Nhưng đúng là múa rìu qua mắt thợ, ông thầy pháp kia vừa làm phép định đánh ông thì ông cầm kiếm gỗ đánh bật lại, và thanh kiếm gỗ của ông lúc bay ra đã cắm thẳng vào cổ cô Liên Liên, trước lúc chết, cô vẫn nói là dù sao cô vẫn mãi yêu ông. Như một người điên dại, ông cứ ôm xác người yêu gào khóc, nhà kia thấy con gái chết thì không thèm đến xem sao mà còn nhổ bãi nước bọt, mắng cô là thứ gái lăng loàn bỏ nhà theo trai. Còn ông K lúc này thì đã bị hận thù che mắt, ông thi triển hết mọi thứ mình học được, từ gọi âm binh, thổ thần đến gọi ma quỷ lên giúp sức,…. Ông muốn cả nhà kia phải chết vì chính họ đã gây nên tất cả. Sáng sớm của một tuần sau, cả ngôi làng nhỏ vùng Cam Túc náo động lên bởi tin nhà họ Kha trong làng đã bị cướp giết sạch, treo xác lên rừng táo đầu làng. Những tưởng sau khi trả thù xong ông sẽ thanh thản, nhưng ông lại càng thêm dằn vặt, đau khổ, tự giận chính mình vì nếu mình không yêu Liên Liên thì mọi chuyện đâu có xảy ra. Và rồi ông bị chính quyền địa phương truy bắt vì tội dùng xảo thuật để giết người cướp của, ông lại trốn chạy tiếp. Vài năm sau, sự việc lắng xuống, ông K lại trở về cuộc đời lang bạt, kiếm sống bằng nghề phù thủy. Gần hai chục năm sau, Đảng cộn‌g sả‌n Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa, những người như ông đều bị quy vào tội tuyên truyền mê tín dị đoan, không bị xử t‌ử hìn‌h thì cũng bị giam chung thân nên rất nhiều người đã trốn sang Việt Nam, và ông K cũng là một trong số đó…."
-----------------------------------------------------------
Đó là quá khứ đầy bi thương của ông K, còn hình săm trên bàn tay ông, đó là biểu tượng của phù thủy hàng Thiên đẳng trong gia tộc họ Vương, người trong nghề phù thủy ai cũng biết cả. Vậy nên hai ông A và N mới kính cẩn với ông như vậy.
Sau khi nghe xong câu chuyện bố em cũng bùi ngùi về số phận ông, cả hai người cùng lăng đi một lúc. Ông K lên tiếng phá tan sự im lặng : " Chú chờ tôi tý, tôi lấy cho chú cái này" Nói đoạn, ông đi vào nhà trong, rồi ông lấy ra hai quyển sách, một quyển đã ngả vàng một quyển xem chừng còn mới. Ông đưa cho bố em, bảo giở ra xem, bố em giở ra thì thấy trong mỗi quyển toàn là hình vẽ loằng ngoằng ngang dọc, nhưng một quyển thì viết bằng chữ Trung Quốc, còn một quyển mới thì viết bằng chữ quốc ngữ, trong đó ghi toàn là các câu khẩu quyết, chiến ý, cách làm bùa phép, xem tướng, đoán vận số,…. Bố em đọc xong thì mới hiểu ra đây là "cuốn sách giáo khoa" của thầy phù thủy. Sau đó thì ông K hỏi bố em nhớ được bao nhiêu, bố liền đọc lại cho ông nghe những chỗ mình nhớ, cả quyển thì bố nhớ được ba phần. Ông K nghe xong gật gù khen: "Vậy là chú giỏi! Người thường học quyển này phải mất hơn hai chục năm mới tinh thông. Nhưng tôi xem tướng chú không phải là người có duyên với nghề này, nói thật với chú, cái nghề này nó bạc lắm chú ạ, đời tôi khốn nạn cũng vì nó đó chứ!". Nhưng ông K vẫn dạy cho bố em cách xem tướng, cách coi chân gà, cách giải chết trùng, cách tính ngày giờ chết của một người đang bệnh nặng,… ông nói là để tiện đường giao thiệp về sau, tự khắc sẽ có ích. Sau đó, ông K bỗng nâng quyển sách cũ viết bằng tiếng Trung lên rồi bảo bố em:" Chú nhớ cái thằng tướng dởm lần trước đến tìm tôi chứ! Cái thằng đó trước là học trò của tôi đấy! Lúc còn học tôi, nó ngoan lắm, nhưng một hôm tôi về nhà thì bắt gặp nó đang ăn trộm quyển sách này, tôi liền đuổi theo giật lại được, nhưng mà nó thì chạy mất, lấy được phần ba quyển sách từ trang đầu….Nhờ có mấy trang sách đó mà nó dần dân leo lên cái ghế tư lệnh quân đoàn, nhưng số trời khó cái, nó đã dùng nghề này để cầu lấy tiền tài thì giờ tai họa đổ xuống đầu nó! Lần trước nó tìm về đây là muốn xin tôi cứu mạng, nhưng ai dám cãi lại mệnh trời? Nó làm thì nó chịu thôi!" - Ông K lại thở dài nhìn xa xăm ra ngoài phía cánh đồng, rồi ông vứt luôn hai quyển sách vào trong lò lửa, tất cả tài nghệ của ông đều sẽ theo ông xuống mồ hết.
Thấy ông buồn nên bố em liền đổi chủ đề, làm cho không khí vui hơn. Thời đó, người sát mạn biên giới về đều đồn là ở Sơn Tây bên Tàu có phái biết thuật dẫn thi, có thể bảo quản xác chết từ chiến trường dẫn về quê quán( Cái nì là Cương Thi trong phim của Lâm Chánh Anh đấy các thím ợ!). Bố em liền đem chuyện này ra hỏi ông K thì ông cười ngặt nghẽo, ông bảo:
-Cái đó hồi tôi còn ở trong nước cũng nghe nhiều, nhưng chưa thấy hoặc biết ai có thể làm như vậy cả, có mấy lần nghe tiếng có người biết làm, tôi đều đến xem, hóa ra toàn là lũ bịp bợm. Còn phái Sơn Tây đó thì đúng là có thật, nhưng họ ít giao tiếp với người trong nghề, bùa chú của họ tôi cũng có biết chút ít, nó là loại bùa rất kì dị, là loại pha trộn giữa nhiều loại bùa chú với nhau, thuật dẫn xác thì tôi biết, đơn giản chỉ là dẫn một cái xác chết đi đi lai lại, sai nó nấu cơm quét nhà, chẻ củi gánh nước hay tát ao thì được chứ nói làm phép để bảo quản xác chết thì tôi không tin. Vì chỉ cần ngưng làm phép lên xác là nó rữa ra ngay lập tức, mà cái trò dẫn xác này tổn âm đức lắm, chỉ có mấy ông mới vào nghề, ngựa non háu đá thì làm để kiếm người phụ việc thôi
Chuyện thứ sáu: Lươn cộ
Cạnh làng em là một con sông dài, chảy thẳng ra biển, có chỗ thì thu hẹp lại chỉ rộng tầm trăm mét, có chỗ thì ăn sâu vào tận trong lòng những dãy núi rỗng ruột như quả bàu, rộng đến vài ba cây số. Ở cái khoảng sông chảy ngầm trong lòng núi đó, luôn là một điều gì đó bí ẩn với người dân quê em từ xưa cho đến tận bây giờ. Nhiều người nói rằng, ở dưới những khoảng ngầm đó là những hang hốc ăn sâu ra tận biển, là nơi trú ngụ của những con cá cụ đã vài chục tuổi, con nào con nấy to bằng cả cái thuyền nan, nó há mồm một cái thì nuốt trọn cả người lớn, dù hù dọa như vậy nhưng bọn trẻ con vẫn không tài nào bỏ được cái trò tắm sông.
Đó là vào một buổi sáng mùa hè năm 70, như moi khi, bọn trẻ chăn trâu thả trâu lên triền núi cho gặm cỏ rồi nhảy ùm ùm xuống tắm, cái bãi tắm này mới được khám phá gần đây, lại gần với chỗ sông chảy ngầm nên nước mát lạnh , màu hè tắm thì cứ gọi là thích phải biết. Đang tắm thì một đứa ngồi trên bờ hét toáng lên rồi réo gọi cả đám lên, cả lũ thấy đứa bé này khóc thì chạy hết lên bờ, hỏi làm sao thì nó chỉ tay xuống nước, cả bon nhìn xuống rồi cùng khóc thét lên, dưới nước, chỗ chúng nó vừa bơi,giờ đang có một con cá trê đen trũi há mồm lên mặt nước ngáp ngáp lấy khí thở, nhưng mà, con cá trê to bằng cả cái thuyền nan. Tiếng khóc của lũ trẻ làm động tới mấy người đốn củi và thợ săn, người canh dê trên núi, tất cả tức tốc lao xuống. Và không chỉ trẻ con mà cả người lớn gồm hơn hai chục người cũng há hốc mồm kinh hãi, dưới nước là con cá cụ trùi trùi, to bằng nửa cái thuyền đang bơi lởn vởn quanh bờ. Ngay lập tức một ông thợ săn giơ khẩu súng kíp lên nhằm thẳng con cá định bắn thì một người ngăn lại. Người này bảo hãy chờ gọi người làng ra rồi bắt, không ít người thế này, mà đạn thì yếu, không biết có giết được nó không, nó mà thù thì cả làng không yên. Một lúc sau thì dan làng tới, ai cũng kinh ngạc, xì xào bàn tán về con cá cụ kia. Nhưng con cá này lại rất dạn người, đông người như thế mà nó vẫn bơi vòng vòng quanh bờ như không có gì. Sau khi đã bàn bạc xong, tất cả thống nhất là sẽ ném mìn cho con cá không chết thì cũng choáng, rồi súng kíp cứ thế mà bắn. Một tiếng hô vang: "Ném này!", rồi uỳnh uỳnh hai tiếng đinh tai nhức óc, nước bắn tung tóe, rồi súng kíp trên bờ cứ nhè chỗ bóng đen mà nã, một lúc sau thì màu con cá loang đỏ cả mặt nước. Dân làng hò nhau lấy dây thừng ra lôi con cá về rồi mở tiệc làm cỗ cho cả làng ăn. Trong đám cỗ, ai cũng vui vẻ, cười nói hỉ hả, chỉ có ba ông thầy là ông N, ông A và ông K là mặt đăm, ba ông chả ăn miếng cá nào, chỉ hớp vài li rượu rồi đi về. Người làng vẫn cứ vô tư ăn uống, không hề biết rằng mình đã ăn phải thứ không nên ăn, động vào thứ không nên động……..

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật